Translate

THẬP CẢNH HÀ TIÊN



(Tham khảo)

Từ lâu lắm rồi, Hà Tiên Thập Cảnh – vùng đất biên thùy cực nam tổ quốc thuộc tỉnh Kiên Giang, đã được biết đến như một nơi hội tụ nhiều danh lam thắng cảnh hoang sơ đầy quyến rũ tiêu biểu nhất của nam bộ. Thi sĩ Đông Hồ đã từng viết: Hà Tiên núi không cao, rừng không rậm, ngắm vui mắt không chán trong lòng. Có một ít hang động của Lạng Sơn, vài ngọn đá chơi vơi ngoài biển, một ít thạch thất, sơn môn của Hương Tích, vài cảnh Tây Hồ, đôi nét Hương Giang, một ít chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm Thuận Hóa, vài bãi cát Đồ Sơn, Cửa Tùng, Long Hải. Không chỉ đẹp về phong cảnh hữu tình, Hà Tiên còn được biết đến với những di tích lịch sữ gắn liền với các huyền thoại, các câu chuyện cổ tích.

1. TIÊU TỰ THẦN CHUNG (CHÙA TAM BẢO)

Rừng thiền sít sát án ngoài tào,
Chuông giống chùa Tiêu tiếng tiếng cao.
Chày thỏ bạt vang muôn khóm sóng;
Oai kình tan tác mấy cung sao.
Não phiền kẽ nấu sôi như vạc.
Trí tuệ người mài sắc tựa đao.
Mờ mịt gẫm dường say mới tỉnh;
Phù sinh trong một giấc chiêm bao.

Tương truyền, sau khi ổn định cơ ngơi, Mạc Cửu cho người về Trung Quốc đón mẹ sang Hà Tiên, lúc này bà đã hơn 80 tuổi và là người rất sùng mộ đạo Phật, có ý muốn đi tu. Năm 1730, ông đã cho xây gần dinh cơ của mình một ngôi chùa, gọi là Tiêu Tự, để mẹ sớm mỏ chiều kinh. Chùa xây trong khuôn viên chùa Tam Bảo hiện nay. Trong một ngày lễ Phật, bà đã mất ngay trước Phật Đài. Mạc Cửu cho đúc một tượng Phật và một chuông đồng để thờ. Nghe tiếng chuông mà tưởng niệm đấng từ thân. Ngôi chùa xưa đã bị quân Xiêm tàn phá khi xâm chiếm Hà Tiên năm 1771. Đến năm 1799, con cháu họ Mạc mới trùng tu lại. Ngôi chùa Tam Bảo hiện nay đã qua nhiều lần trùng tu lớn và nhỏ (lần trùng tu lớn nhất là năm 1940). Phía sau chùa hiện nay còn mộ của Thái Thái Bà Bà (mẹ ông Mạc Cửu). Trong chùa chỉ còn tượng Phật bằng đồng, chuông đồng đã bị mất khi quân Xiêm xâm chiếm. Xung quanh chùa hiện nay còn lại bức tường cổ, họ Mạc cho xây dựng để ngăn giặc, vật liệu làm bằng vôi và ô dước nhưng vẫn bền vững gần 300 năm nay. Mạc Thiên Tích đã vịnh cảnh “Tiêu Tự Thần Chung” như để nói lên tâm tư của ông ở nơi dinh thự khi nghe tiếng chuông chùa vào buổi sớm. Tiếng chuông chùa buổi sớm ngân vang tạo cho một vùng không gian Hà Tiên thêm êm đềm, thanh tịnh. Chùa Tam Bảo là một di tích lịch sử gắn liền với dòng họ Mạc, nằm ngay trung tâm thị xã Hà Tiên, có một khuôn viên khá rộng, không khí trong lành, khoáng đãng, yên tĩnh, là nơi mà hầu hết du khách đến Hà Tiên đều muốn ghé qua thăm viếng.

2. KIM DỰ LAN ĐÀO (NÚI PHÁO ĐÀI)

Kim là vàng, dự là hòn đảo nhỏ, lan là ngăn chặn, đào là sóng to. Kim Dự Lan Đào là hòn đảo vàng ngăn chặn sóng gió. Ý nói, trước hải khẩu trấn Hà Tiên có hòn đảo nhỏ ngăn chặn sóng gió, gìn giữ cho nội địa được yên ổn.

Kim dự này là núi chốt then,
Xanh xanh dành trấn cửa Hà Tiên.
Ngăn ngừa nước dữ không vùng vẫy,
Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng.
Thế cả vững vàng trên Bắc hải;
Công cao đồ sộ giữa nam thiên.
Nước yên chẳng chút lông thu động,
Rộng bủa nhơn xa tiếp bách xuyên.

Kim Dự là một quả đồi nhỏ phía Tây Nam thành phố Hà Tiên. Thường gọi là núi Pháo Đài. Vì trên đó, từ hồi Triều Nguyễn đến hồi bị Pháp thuộc vẫn là cứ điểm quân sự để trấn giữ cửa biển, bảo vệ trấn Hà Tiên chống giặc ngoại xâm. Cách đây hơn một thế kỷ, Pháo Đài vẫn còn tách rời đất liền. Nay Pháo Đài dính với đất liền là do công sức xây đắp của các tù nhân thời thực dân Pháp. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí cho Pháo Đài là Đại Kim Dự, còn một cảnh Tiểu Kim Dự nữa. Có lẽ là chỗ đối cảnh với Đại Kim Dự về hướng Nam, mà nay đã dính liền vào đầu sơn phận núi Tô Châu, chỗ doi đất hiện giờ có miễu thờ Thủy Thần và miễu thờ Cá Ông Nam Hải. Ngày nay, chiếc cầu Tô Châu đã nối liền hai bờ Đại Kim Dự và Tiểu Kim Dự. Và dưới chân Pháo Đài là ngọn Hải Đăng, làm cho đôi bờ cửa biển Hà Tiên càng thêm duyên dáng, đáng yêu. Nơi đây rất lý tưởng cho những du khách thích thưởng ngoạn ngắm cảnh trời mây non nước và tận hưởng gió mát. Từ đây, ta có thể ngắm toàn cảnh thị xã Hà Tiên, thưởng thức “ Đông Hồ Ấn Nguyệt “ trong những đêm trăng sáng và ngắm cảnh hoàng hôn trên biển.

 

3. LỘC TRĨ THÔN CƯ (CẢNH ĐẸP MŨI NAI)

Lộc là nai, trĩ là mõm núi, mũi núi. Lộc Trĩ là Mũi Nai, thôn cư là chỗ thôn trang dân cư. Lộc Trĩ Thôn Cư tạm dịch là xóm núi Mũi Nai. Xóm dân cư này đã đi vào văn học qua bài thơ Lộc Trĩ Thôn Cư của Tao Đàn Chiêu Anh Các.

Lâm lộc ai rằng thú chẳng thanh.
Nửa kề nước biếc nửa non xanh
Duỗi co chẳng túng kiền khôn hẹp
Cúi ngửa vì vâng đức giáo lành
Lưu loát hưởng dư ơn nước thạnh
Ê hề sẵn có của trời dành
Đâu no thì đó là an lạc
Lựa phải chen cân chốn thị thành.

Bãi tắm Mũi Nai cách trung tâm thành phố Hà Tiên khoảng 6 km về hướng Tây, gồm hai điểm: bãi trước và bãi sau. Bãi tắm Mũi Nai không sâu thẳm mà thoai thoải dần và sóng ở đây ít ồn ào, hung hãn, rất yên tĩnh và hiền lành. Từ bờ ra chừng trăm mét vẫn an toàn, chúng ta có thể an tâm đùa giỡn với sóng nước. Mũi Nai nằm trong vùng biển vịnh Thái Lan. Xa xa có nhiều hòn đảo nhấp nhô, chếch về phía bên trái là quần đảo Hải Tặc, xa hơn nữa là đảo ngọc Phú Quốc nằm trãi dài mà chúng ta có thể nhìn rõ hơn trong những ngày trời quang mây tạnh. Đến Mũi Nai, tắm biển, hưởng nắng và gió biển sẽ giúp du khách thêm vui tươi, khỏe khoắn. Chúng ta có thể nằm võng hoặc ghế bố mà ngắm cảnh thiên nhiên, nhìn sóng nước từng đợt nhấp nhô, xô lượn vào bờ. Bạn sẽ thấy tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng. Chúng ta sẽ thưởng thức các đặc sản biển như: ốc nhảy, hào đá, cua, ghẹ, mực,. .. Bãi biển Mũi Nai là nơi mà tất cả các du khách đến Hà Tiên đều muốn thăm qua. Có thể nói khu vực đồng bằng sông Cửu Long, bãi tắm Mũi Nai là nơi lý tưởng nhất cho những du khách yêu thích biển đến tham quan du lịch.

4. NAM PHỐ TRỪNG BA (BÃI BIỂN PHÍA NAM)

Trong năm cặp thắng cảnh đối nhau thì “Nam Phố trừng Ba” là cảnh đối lại với “Đông Hồ Ấn Nguyệt”. Nam Phố là bãi biển ở phía Nam. Trừng là nước lặng lẽ. Ba là sóng. Nam Phố Trừng Ba là bãi biển phía Nam sóng nước lặng lẽ. Dòng Nam phẳng lặng khách dầu chơi.

Hai thức như thêu nước với trời
Bãi khói dưới kia hương lại bủa
Hồ gương trong đó gấm thêm rơi
Sóng chôn vảy ngạc tình chi xiết
Nhạn tả thơ trời giá mấy mươi
Một lá yên ba dầu lỏng lẻo
Đong trăng lường gió nước vơi vơi.

Nam Phố là một bãi biển cách thành phố Hà Tiên về hướng Nam khoảng 11km, thuộc ấp Bãi Ớt, xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương. Bãi biển ở đây gần giống như một cái vịnh nhỏ được che chở bởi các ngọn núi, nên biển ở đây thường yên lặng hơn các nơi khác, gần như quanh năm êm đềm lặng sóng. Những ghe thuyền qua lại gặp mùa động Nam, muốn tránh sóng gió đều vào đây ẩn núp cho qua cơn trời động. Cảnh vật nơi đây còn rất hoang sơ và gần với thiên nhiên. Bãi tắm ở đây cũng khá đẹp và lý tưởng. Dân cư ở đây rất hiền hòa, sống bằng nghề trồng tiêu và làm nghề biển. Đến đây, chúng ta sẽ được thưởng thức những món đặc sản địa phương như gỏi cá trích, gỏi cá nhòng, con cà xỉu,… với hương vị rất riêng của miền biển.

5. THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN (THẮNG CẢNH THẠCH ĐỘNG)

Thạch động là một khối đá vôi khổng lồ, có độ cao khoảng 48m, nằm sát quốc lộ 80, cách trung tâm thành phố Hà Tiên về hướng Tây Bắc 3km. Từ xa trông Thạch Động như hình chiếc mũ lông của lính kỵ mã Anh quốc.

Thạch Động đã đi vào thơ ca qua tác phẩm “Hà Tiên Thập Cảnh” của Mạc Thiên Tích, là một trong mười cảnh đẹp tiêu biểu của Hà Tiên với tên gọi Thạch Động Thôn Vân. Thạch Động là động đá. Thôn là nuốt. Vân là mây. Thạch Động Thôn Vân là động đá nuốt mây. Nhân cảnh mây phong khói tỏa, quanh quẩn ở chỗ cửa động, mà thi nhân nghĩ như là động khẩu hút khói nuốt mây.

Quỷ trổ thần xoi nổi một tòa,
Chòm cây khóm đá dấu tiên gia
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại;
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giới;
Chang bang một dãy chứa yên hà.
Chân trời mới biết kho trời đấy
Cân đái hèn chi rở ỷ la.

Dân gian truyền rằng trong Thạch Động có đường thấu tới đỉnh nên ánh sáng mặt trời rọi xuống, đây là đường lên trời. Còn đường xuống địa phủ được dân gian gắn liền với huyền sử “Thạch Sanh giết Đại Bàng cứu công chúa Quỳnh Nga và Thái Tử con vua Thủy Tề”. Đường xuống địa phủ là một hang sâu thăm thẳm không biết đâu là cùng. Tương truyền rằng, có lần Tổng trấn Mạc Thiên Tích sai người theo cửa hang đi xuống để xem sao, người đó đi mãi chỉ nghe tiếng sóng, sợ quá phải quay trở lên. Một tương truyền khác, có người thử xem hang này ra sao, họ khắc chữ đánh dấu vào những trái dừa khô rồi thả xuống hang. Ít lâu sau, những người đi biển vùng Hà Tiên, Phú Quốc đều lượm được những trái dừa đó. Do hang sâu nguy hiểm nên đã được lấp từ những năm 1960. Trong hang có một ngôi chùa thờ Phật, ngôi chùa được dựng lên khi nào chưa rõ, cửa chùa cũng là cửa hang chính của Thạch Động, phía trên có ghi ba chữ “Tiên Sơn Tự ” với hai câu đối bằng chữ Hán: “Thạch thượng linh cơ lưu ngọc dịch; Động trung tĩnh địa ẩn kim tiên”. Thạch Động còn có tên cổ là núi Vân Sơn, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tập 05 quyển 26, mục Sơn Xuyên Chí có chép như sau: “Núi Vân Sơn ở huyện Hà Tiên, cách Địa Tạng khoảng một dặm, có núi cao chừng bốn trượng, bốn bên vách đứng như cái cột kình thiêng, núi có động rộng 4_5 trượng, trong có chùa Bạch Vân”. Và mục Tự quán có chép: “Chùa Bạch Vân ở thôn Mỹ Đức, huyện Hà Tiên, trước do người Minh Hương là Đoàn Tân dựng, năm Thiệu Trị thứ 7 Tuần Phủ Phan Tùng bổ…”.

Đầu thế kỷ XX, có hai nhà sư từ miền Trung tới trụ trì ngôi chùa. Một vị là Nguyên thọ thượng chánh hạ quả, dòng tu Lâm Tế đời thứ 39, tục danh là Lê Thế Duyên, quê ở Phú Yên. Hòa thượng từ trần ngày 21 tháng 12 năm Quý Sửu (1913), thọ 78 tuổi. Một vị là Húy quảng sĩ thượng thiên hạ học, dòng tu Lâm Tế thứ 40, tục danh là Trịnh Tấn Phước, người Bình Định. Thiền sư từ trần ngày 02 tháng 09 năm Aát Dậu (1945 ), thọ 75 tuổi. Sau khi hai nhà sư qua đời, đệ tử của sư Trịnh Tấn Phước là bà Cam Thị Nam (thường gọi cô Hai Nàm), kế thừa đạo nghiệp trụ trì ngôi chùa. Năm 1948, Bà bị thực dân Pháp bắt cùng với ba người nữa làm ruộng cho nhà chùa, chúng đêm cả bốn người về giam tại đồn Hà Tiên. Chúng bắt được quả tang bà Hai Nam tiếp tế và nuôi dấu cán bộ cách mạng. Ngay đêm bị bắt, giặc Pháp đã giết bà tại cầu tàu Hà Tiên. Người nữ tu hành này là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước.Trong hai cuộc kháng chiến và những năm tháng chiến tranh biên giới, nơi đây đã từng diễn ra những trận chiến ác liệt chống quân xâm lược, góp phần tô đậm truyền thống anh hùng của quân dân Hà Tiên. Hiện nay dưới chân Thạch Động có bia căm thù tưởng niệm 130 người đã bị bọn diệt chủng Pôn Pốt tàn sát vào ngày 14.03.1978 tại xã Mỹ Đức.Ra các cửa hang phía sau của Thạch Động, chúng ta sẽ được tận huởng những cơn gió mát lồng lộng, một không gian khoáng đãng, một vùng trời biên giới cùng với biển xanh, đảo nhỏ xa xa nhấp nhô. Không gian khoáng đãng, cảnh vật hữu tình, không khí tĩnh lặng cùng những pho tượng Phật uy nghiêm làm cho ta vơi bớt bụi trần trong giây lát, xua tan nỗi mệt nhọc sau những ngày lao động vất vả. Đến Hà Tiên, thăm Thạch Động với cảnh thiên nhiên thật thơ mộng và hùng vĩ, tạo cho ta cảm giác vô cùng thích thú.

6 .ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT (NGẮM BINH MINH TRÊN SÔNG ĐÔNG HỒ)

Đông Hồ là một đầm nước mặn, rộng khoảng 14 km2, nằm ở phía Đông thành phố Hà Tiên.Đông Hồ là một thắng cảnh thiên nhiên đẹp nổi tiếng của Hà Tiên đã đi vào thơ ca hàng trăm năm nay qua tác phẩm “Hà Tiên Thập Cảnh” của Mạc Thiên Tích với tên gọi “Đông Hồ Ấn Nguyệt “.

Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang.
Giữa có vầng trăng nổi rõ ràng.
Đáy nước chân mây in một sắc;
Ả Hằng nàng Tố ló đôi phương.
Rạng thanh đã hứng thuyền
Tô tử Lạnh lẽo càng đau một kiến Nhạc xương
Cảnh một mà tình người dễ một
Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương.

Đông Hồ là hồ ở phía Đông thành Hà Tiên, ấn nguyệt là trăng in. Thi nhân đã nhìn thấy bóng trăng in xuống mặt hồ y như cái ấn tròn đóng trên tờ giấy bạch. Và không phải bất kỳ lúc nào ta cũng được như thế mà đòi hỏi ta phải có lòng thành yêu cảnh, thăm tìm và chờ đợi. Vào đêm 16, 17 âm lịch, khoảng 07-08 giờ tối, ra bờ hồ, nhìn thẳng về hướng Đông mà đợi, đợi đến lúc trăng lên, chúng ta sẽ được nhìn chiếc ấn nguyệt in tròn vành vạnh trên mặt hồ. Vào những đêm trăng cảnh vật trên Đông Hồ rất đẹp, ánh trăng lung linh trên sóng nước mặt hồ mà ngày xưa Mạc Thiên Tích tưởng chừng tiên nữ lạc bước trần gian, đã làm nao lòng mạc khách đề thơ. Chúng ta có thể thả thuyền thưởng ngoạn trên Đông Hồ trong những đêm trăng cùng với bằng hữu, có nhạc, có thơ, có rượu, có những món ăn truyền thống của Hà Tiên, đắm mình trong không khí tao nhã như người xưa đã từng thưởng thức Đông Hồ, ta mới cảm nhận hết cái đẹp, cái thơ mộng của Đông Hồ. Đông Hồ chứa nước từ sông Giang Thành đổ vào và ăn thông ra biển để có hai mùa mặn ngọt, là nơi lý tưởng cho nhiều loại thủy cầm sinh sống. Những loài thủy cầm này đã góp phần nuôi sống con người Hà Tiên trong biết bao thế kỷ qua. Đông Hồ còn có hai ngọn núi Tô Châu ngày đêm soi bóng cùng với những thuyền chài, những ghe lưới, … càng làm tăng vẽ thơ mộng và hữu tình của Đông Hồ.

7. GIANG THÀNH DẠ CỔ (TIẾNG TRỐNG CẦM CANH BÊN BỜ SÔNG)

Giang Thành là thành lũy đóng ở bên sông. Dạ là ban đêm. Cổ là tiếng trống. Giang Thành Dạ Cổ là tiếng trống cầm canh ở chỗ đồn thú bên bờ sông, về ban đêm.

Trống quân giang thú nổi uy phong,
Nghiêm giống đòi canh ỏi núi sông.
Đánh phá mặt gian người biết tiếng;
Vang truyền lịnh sấm chúng nghiêng lòng.
Phao tuông đã thấy yên ba vạc;
Nhiệm nhặt chi cho lọt mảy lông
Thỏ lụn sớm hầu chờ bóng ác;
Tiếng xe sầm sạt mới nên công.

Sau khi tiếp nối cơ nghiệp của cha, Mạc Thiên Tích tăng cường việc xây dựng và bố phòng chung quanh Phương Thành. Do vị trí địa lý, việc thông tin từ vùng phía Bắc về Hà Tiên rất khó khăn (lúc này kinh Vĩnh Tế chưa được đào, chỉ có sông Giang Thành). Ông đã cho đắp một con đường nhỏ, chủ yếu dùng cho việc liên lạc hỏa tốc, đủ một người một ngựa, bắt đầu từ Đá Dựng chạy dài đến bờ Bắc sông Giang Thành với nhiều vọng gác. Tục truyền, cứ bắt đầu một hồi trống gác đánh từ Hà Tiên đến hồi trả lại là đúng một giờ. Đường này còn có tên là lộ sứ Tự Đức, đến nay hầu như không còn để lại dấu vết. Giang Thành ngày nay chỉ là một địa danh thuộc xã Tân Khánh Hòa, huyện Kiên Lương, cách thành phố Hà Tiên khoảng 10km, là chỗ ngã ba tiếp giáp kinh Vĩnh Tế từ Châu Đốc chảy sang, liền với thượng lưu con sông Giang Thành. Mà trước đây vào thời Minh Mạng, Giang Thành đã từng là một quận của tỉnh Hà Tiên.

8. LƯ KHÊ NGƯ BẠC (XÓM CHÀI RẠCH VƯỢC)

Lư Khê Ngự Bạc là cảnh thứ mười trong “Hà Tiên Thập Cảnh”. Lư là loài cá Vược. Khê là khe, là rạch. Ngư là thuyền chài, người lưới cá, câu cá. Bạc là thuyền đỗ bến. Lư Khê Ngư Bạc là cảnh Rạch Vược, nơi thuyền ngư đỗ bến hay còn gọi là xóm chài Rạch Vược.

Bến Vược nhà ngư chật mấy từng
Trong nhàn riêng có việc lăng xăng.
Lưới chài phơi trải đầy trời hạ,
Gỏi rượu say sưa tọai nghiệp hằng,
Nghề Thuấn hãy truyền bền trác trác,
Dân Nghiêu còn thấy đủ răng răng.
So đây mười cảnh thanh hòa lạ,
Hòa cảnh Đào nguyên mới sánh chăng.

Cách đây mấy thế kỷ, trong địa phận xã Thuận Yên, cách thành phố Hà Tiên khoảng ba cây số có một con rạch nhỏ từ kinh Rạch Giá – Hà Tiên ăn thông ra biển, nơi đây loại cá vược tụ tập rất nhiều, len lỏi qua các khe núi Nhọn, núi Ông Đội và núi Nhỏ, tạo thành một cảnh sơn thủy kỳ thú. Mạc Thiên Tích đã cho dựng ở đây một ngôi “điếu đình” làm chỗ nhàn hạ buông câu, làm nơi tiêu dao ngoạn cảnh, nghỉ ngơi, di dưỡng tinh thần. Và nơi đây còn được gọi là Lư Khê Nhàn Điếu. Bây giờ con rạch Lư Khê không còn ăn thông ra biển và loài cá vược ở đây cũng không còn nhiều như xưa nữa. Vì từ khi Quốc lộ 80 được xây dựng thì con rạch đã bị lắp ngang. Dòng Lư Khê vẫn chảy êm đềm qua những khe núi để hòa vào Đông Hồ và cảnh vật ở Rạch Vược vẫn thanh bình, êm ả.

9. BÌNH SAN ĐIỆP THÚY (THẮNG CẢNH TRÊN NÚI BÌNH SAN)

Bình San Điệp Thúy là cảnh đẹp thứ hai trong “Hà Tiên Thập Cảnh” của Mạc Thiên Tích. Bình San là dãy núi dựng như bức bình phong, ở sau thành Hà Tiên. Cũng như tiếng lan đào của Kim Dự, ngụ ý che đỡ kín đáo cho thành nội. Điệp là trùng trùng điệp điệp, lớp lớp từng từng. Thúy là màu xanh chim trả. Bình San Điệp Thúy là ngọn núi như tấm bình phong sắc xanh lớp lớp.

Một bước càng thêm một thú yêu,

Lằn cây vết đá vẽ hay thêu.

Mây tùng khói liễu, chồng rồi chập;

Đàn suối ca chim, thấp lại cao.

Luật ngọc trâu ông chẳng phải trổi;

Ngòi sương Ma cật đã thua nhiều.

Đến đây mới biết lâm tuyền quý,

Chẳng trách Sào Do lánh Đế Nghiêu.

Quần thể núi Bình San có một vị trí khá đặc biệt. Ở đây, thi sĩ họ Mạc đã ví như “một bức tường thành che chắn mặt phía Tây thành Hà Tiên”. Họ Mạc đã chọn khu vực này để xây lăng mộ của dòng họ và các tôi thần trung nghĩa. Và cũng chính điều này mà nhân dân còn gọi Bình San là núi Lăng. Trên núi thì có lăng tẩm của vị Khai Trấn Quốc Công Mạc Cửu, vị tướng kiêm nhà thơ Mạc Thiên Tích cùng lăng mộ con cháu dòng họ Mạc và lăng mộ các tướng sĩ đã theo giúp họ Mạc xây dựng và bảo vệ Hà Tiên. Còn dưới chân núi là đền thờ họ Mạc, hay còn gọi là Mạc Công Miếu với hai câu đối: “Nhất môn trung nghĩa gia thịnh trọng; Thất diệp phiên hàn quốc sủng vinh”, như ghi lại công lao của họ Mạc đối với đất Hà Tiên. Trong miếu còn có bút tích của ông Nguyễn Thần Hiến là một nhà yêu nước tham gia hoạt động cách mạng chống Pháp trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, trên tường ghi lại những bài thơ chữ nôm do Mạc Thiên Tích sáng tác (qua nhiều lần trùng tu, bút tích này được phục chế khắc trên gỗ). Trước đền, hiện có ba ao trồng sen. Riêng ao bìa bên trái (từ cổng nhìn ra), xưa kia được gọi là “bán nguyệt liên trì” vì có dạng nửa hình tròn được đào từ thời Mạc Thiên Tích để lấy nước cho dân sử dụng. Trên Bình San còn hai di chỉ của nền Sơn Xuyên và nền Xã Tắc do Mạc Thiên Tích lập ra để hành lễ vào các ngày trọng đại. Nền Sơn Xuyên là chỗ tế thần núi thần sông, ở chỗ cao chót núi, chỗ nhìn ra Kim Dự. Nền Xã Tắc là chỗ tế hậu thổ thần nông, ở chỗ thấp giữa lưng núi, chỗ bây giờ đã có vườn tược trồng trọt. Đối với Nhà Nguyễn, thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, Hà Tiên được hưởng một chế độ cai trị đặc biệt, như một “tiểu quốc”. Do đó, họ Mạc cho lập hai nơi này để tế cáo trời đất (giống như Vua_Chúa nhà Nguyễn). Từ năm 1708 đến năm 1770, Trấn Hà Tiên dưới thời Mạc Cửu và nhất là Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu), đã là một thương cảng sầm uất, mà sử thần nhà Nguyễn là Trịnh Hoài Đức viết “là một nơi đô hội ở miền biển”. Tàu buôn các nước trong khu vực lui tới Hà Tiên khá tấp nập để trao đổi và mua bán nhiều sản vật quí hiếm đi nhiều nơi như Malaysia, Hải Nam,…

Từ những năm cuối thế kỷ XVII trở về trước, cả một vùng đất rộng lớn từ Hà Tiên cho đến Cà Mau vẫn còn hoang vu, nhiều sơn lam, chướng khí và thú dữ. Tuy đã có một số ít lưu dân tứ xứ từ Trung Quốc, Cao Miên, người Kinh (Việt Nam),…đến tự khai khẩn và sinh sống, trong đó có lưu dân người Việt là chiếm đa số. Nhưng họ sống rãi rác nhiều nơi không tập hợp thành một cộng đồng quần cư. Vì thế, cho đến lúc đó, vùng này vẫn là nơi “vô quản”. Mạc Cửu, sinh ngày 08 tháng 05 năm 1655, người xã Lê Quách_huyện Hải Khang_phủ Lôi Châu_tỉnh Quảng Đông_Trung Quốc, cùng một số người Hoa khác, vì không phục chính sách cai trị của nhà Thanh, đã dong buồm xuống phương nam vào cuối thế kỷ XVII. Sau nhiều lần bôn ba, phiêu bạt, đến năm 1708, ông đến vùng đất này (lúc bấy giờ có tên là Mang Khảm). Nhận thấy nơi đây cảnh trí thiên nhiên vô cùng thơ mộng, thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển sự nghiệp, ông đặt tên cho vùng đất này là Hà Tiên (sông Tiên). Và do hiểu được vị thế lúc bấy giờ của chúa Nguyễn, Mạc Cửu dâng biểu tâu xin và được chúa Nguyễn Phúc Chu phong làm Hà Tiên Trưởng, sau là Tổng Trấn Hà Tiên. Ông đã tổ chức lại xã hội, xây dựng thành quách, mở mang công cuộc làm ăn buôn bán, với nhiều nước lân cận, từ đó Hà Tiên ngày càng phồn thịnh. Mạc Cửu mất năm 1735, được chúa Nguyễn Phúc Chú truy tặng Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Công, Đại Tướng Quân Vũ Nghị Công. Mùa xuân năm 1736, chúa Nguyễn Phúc Chú sắc phong cho Mạc Thiên Tích kế tập cha, thăng Đô Đốc Trấn Hà Tiên. Sau khi nhậm chức, Mạc Thiên Tích chăm lo mở mang phố xá ở trấn lỵ Hà Tiên, phát triển thêm việc buôn bán, đồng thời cũng cho sửa sang đồn lũy để ngăn giặc ngoại xâm. Nhờ đó, đất Hà Tiên “ngày càng phồn thịnh, nhân dân ở yên cày cấy, trồng trọt, phong vật phồn hoa, thuyền buôn đi lại tấp nập, cũng là một đất vui ở miền biển”. Trong những lúc Mạc Công cùng tướng sĩ chiến đấu chống giặc bảo vệ thành Hà Tiên, Chánh phu nhân Mạc Thiên Tích là bà Nguyễn Thị Hiếu Túc đã lãnh đạo nhiều phụ nữ khác lo cơm nước tiếp tế kịp thời, đồng thời giữ vững an ninh trật tự trấn Phương Thành. Vì vậy, bà đã được Nhà Nguyễn phong tặng tước “Phu nhân”. Trấn Hà Tiên dưới thời Mạc Thiên Tích và cho đến ngày nay, nổi tiếng cả nước với Hội Tao Đàn Chiệu Anh Các, một hiện tượng văn học sớm nhất của Miền Nam (Đàng Trong) vào thế kỷ XVIII do Mạc Thiên Tích làm chủ xướng. Ngày nay, xung quanh triền núi còn nhiều di tích mang đậm dấu ấn “Lịch sử_Văn hóa” như: Đền, chùa, lăng mộ, ao hồ,…Do đó, ngày 21/01/1989, Bộ Văn Hóa_Thông Tin đã có Quyết định số 100/QĐ_VH công nhận khu vực này là: “Di tích lịch sử_ văn hóa cấp quốc gia”. Từ Lăng Mạc Cửu, ta có thể thấy cảnh nội ô thị xã Hà Tiên, Đông Hồ, cụm núi Tô Châu hùng vĩ, cầu Tô Châu, cửa biển Hà Tiên và mặt biển bên ngoài của tấm bình phong. Trời, mây, nước thu vào như một bức tranh phong cảnh thiên nhiên rất thơ mộng và đẹp mắt. Cũng từ Lăng Mạc Cửu, ta có thể đi vòng qua triền núi phía Tây để viếng mộ Mạc Mi Cô (Mạc Mi Cô là con gái của Mạc Thiên Tích_dân địa phương còn gọi là Bà Cô Năm ), do truyền tích linh thiêng nên từ lâu rất được nhiều người sùng bái. Và ta cũng có thể vòng qua triền núi phía Bắc để thăm ngôi “Phù Dung Cổ Tự”, một trong những ngôi chùa cổ của Hà Tiên và có thể nói là của cả Kiên Giang, đặc biệt chỉ có chùa Phù Dung có điện thờ Ngọc Hoàng phía sau chùa. Ngôi chùa này được biết nhiều qua vở tuồng dã sử “Áo cưới trước cổng chùa” do thi sĩ Kiên Giang Hà Huy Hà dàn dựng từ tiểu thuyết “Nàng Ái Cơ trong chậu úp” của nữ sĩ Mộng Tuyết được hư cấu từ hai nhân vật có thật là Tổng Binh Đại Đô Đốc Mạc Thiên Tích và người vợ thứ của ông là bà Nguyễn Thị Xuân, mà nhân dân địa phương kính trọng gọi là Bà Dì Tự. Hiện nay, núi Lăng thuộc địa phận phường Bình San, thị xã Hà Tiên. Đến Hà Tiên, lên núi Lăng để sống lại một chút với Hà Tiên thời mở đất.

10. CHÂU NHAM LẠC LỘ (THẮNG CẢNH ĐÁ DỰNG)

Đá Dựng cách trung tâm thành phố Hà Tiên khoảng 6km, cách Thạch Động về hướng Tây Bắc, từ quốc lộ 80 đi vào khoảng 1850m, chơ vơ giữa đồng có một dãy núi đá vôi, thường gọi là Đá Dựng. Đá Dựng có độ cao gần 100m, nhìn xa Đá Dựng như một hình thang cân. Gọi là núi Đá Dựng vì đá ở đây dựng đứng như vách. Đá Dựng có tên cổ là núi Bạch Tháp, theo sách “Gia Định Thành Thông Chí” do sử gia Triều Nguyễn là Trịnh Hoài Đức (viết xong năm Canh Thìn, 1820_đời Minh Mệnh) ở mục Sơn Xuyên Chí (chép về núi sông), về trấn Hà Tiên có ghi về núi Đá Dựng như sau: Bạch Tháp ở phía Bắc núi Vân Sơn (tức Thạch Động) năm dặm, sông núi quanh co, cỏ cây rậm rạp, nhà sư Quy Nhơn là Hòa Thượng Hoàng Long Đại vân du, cắm gậy ở đây. Năm Đinh Tỵ (1737), Túc Tông Hiếu Minh Hoàng Đế thứ 13, Hòa Thượng tịch, đồ đệ xây tháp bảy cấp để cất xá lợi. Hàng năm cứ đến ngày Tam nguyên và Phật đản thì chim hạc đến múa vượn xanh dâng quả, lưu luyến bồi hồi như có ý tham thiền nghe kệ, có thể gọi là cảnh chùa tiêu sái. Còn trong Hà Tiên thập cảnh, Đá Dựng với tên gọi là Châu Nham Lạc Lộ (Cò về núi ngọc). Đặt là châu nham vì núi Đá Dựng có loại thạch nhủ tinh quang lấp lánh như kim cương, có nhiều màu sắc đẹp như châu ngọc. Nham là núi đá cao, có nhiều hang hốc. Lạc là rơi rụng. Nói về vật nhẹ từ trên cao rơi xuống, như lá cây rụng, như đám mây bay thấp xuống. Lộ là loài chim phần nhiều loại lông trắng, loại thủy cầm sinh sống ở chỗ đầm, ao vũng vực, ăn cá ăn tôm. Châu Nham Lạc Lộ là cảnh đàn cò trắng bay về dãy núi Châu Nham. Châu Nham là dãy núi đá vôi có nhiều hang động, xa xa chung quanh có đầm nước. Loại chim cò sáng đi ăn ở các đầm vũng, ở bãi biển mé gành, buổi tối bay về nghỉ cánh ẩn vào hang đá, trốn mưa, trốn nắng, trốn người săn bắt.

Biết chỗ mà nương ấy mới khôn,

Bay về đầm cũ mấy mươi muôn

Đã giăng chữ nhất dài trăm trượng,

Lại sắp bàn vây trắng mấy non.

Ngày giữa ba xuân ngân phấn vẽ;

Đêm trường chín hạ tuyết sương còn.

Quen cây chim thể người quen chúa,

Dễ đổi nghìn cân một tấc son.
Hiện nay, trong các hang hốc của Đá Dựng, có nhiều vỏ hào, vỏ ốc còn dính lại trên vách đá, chứng tỏ xưa kia nơi đây là đầm nước. Ao đầm vũng vực, chính là nơi thích nghi cho loại chim, loại cò, loại le le, vịt nước sinh hoạt. Cứ như thơ văn sách vỡ cũ xét thấy thì dãy Đá Dựng này xưa kia là một sân chim như các sân chim ở Rạch Giá, Cà Mau. Các sách chữ Hán viết là Điểu Đình. Do quá trình thay đổi về địa chất và địa hình qua hàng nghìn năm đã tạo nên núi Đá Dựng ngày nay. Đá Dựng có một vị trí chiến lược quân sự quan trọng nên đã trở thành căn cứ cách mạng của Đảng bộ và Quân dân Hà Tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cụ thể là: lực lượng ta chưa đến 100 người với lòng quả cảm và ý chí kiên cường, các chiến sĩ cách mạng đã giữ vững căn cứ Đá Dựng qua cuộc chiến đấu suốt 27 ngày đêm tháng 05 năm 1970. Bây giờ ở các hang của Đá Dựng dấu tích của trận chiến năm xưa vẫn còn. Đến tham quan Đá Dựng để hiểu vì sao иá Dựng đi vào lịch sử đấu tranh của Đảng bộ và Quân dân Hà Tiên như một truyền thống hào hùng. Mỗi hang của Đá Dựng có một vẻ đẹp riêng và rất huyền bí. Các hang với những tên gọi như: hang Mẹ Sanh, hang Bồng Lai, hang Thần Kim Qui, hang Biệt Động, hang Khổ Qua,…

Đá Dựng là một điểm tham quan độc đáo bởi thạch nhủ trong các hang của Đá Dựng có những hình thù khác nhau: thạch nhủ có hình như trái khổ qua, khối đá xanh hình con rùa, phiến đá như chiếc đĩa bay, đá trên vách hang nhô ra như đầu con bò, đầu con khủng long, vách đá nghiêng nhìn như chiếc áo cà sa lung linh ánh chớp,… Đá Dựng, một di tích lịch sử, một nơi tham quan du lịch hấp dẫn. Đến Đá Dựng như trở về cội nguồn lịch sử , cũng như khám phá vẻ đẹp kỳ bí của các hang động.

 

 

 

 

 

THUYẾT MINH VỀ TUYẾN ĐIỂM HÀ TIÊN

(Tham khảo)

Diện tích: 100,49 km²

Dân số: 100.560 người (2019)

Dân tộc: Việt,Hoa,Khmer,...

Thành phố Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang

Biệt danh: Thành phố thơ

Thành phố Hà Tiên có 7 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 5 phường: Bình San, Đông Hồ, Mỹ Đức, Pháo Đài, Tô Châu và 2 xã Thuận Yên, Tiên Hải.

Địa hình: Thành phố Hà Tiên là một dải đất hẹp nằm ven biển, với đầy đủ các dạng địa hình: vũng, vịnh, đồng bằng, núi, sông, hang động, hải đảo...tạo nên nhiều cảnh quan đẹp. Được ví như Vịnh Hạ Long thu nhỏ.

Tên gọi: Tà Teng là một ấp cư dân cổ ở hướng Đông Bắc thành phố Hà Tiên, nằm bên bờ trái sông Giang Thành. Khi xưa, người Khmer gọi sông này là Tà Teng (sau là Prêk Ten). Tà có nghĩa là sông, Teng là tên sông. Sách Nghiên cứu Hà Tiên viết: Cách giải thích cũ "nơi đây xưa kia có tiên hiện xuống đi lại trên sông, nên gọi là Hà Tiên" là không có căn cứ và thiếu khoa học.

Mã hành chính: 900

Biển số xe: 68-H1

Số điện thoại: 0297 3852 094 ‎

* Vùng đất Hà Tiên xưa
- Được khai mở vào đầu thế kỉ thứ 18, Hà Tiên từ lâu đã nổi tiếng có nhiều thắng cảnh đẹp, thu hút nhiều lượt khách tham quan. Không ai nhớ chính xác tên gọi này có từ bao giờ. Chỉ biết Hà Tiên xưa kia thuộc vùng đất Mang Khảm (tục danh Trấn Phiên thành, còn gọi là Đồng Trụ trấn). Tương truyền rằng, ngày xưa vì mến cảnh trần gian nơi đây có nhiều cảnh đẹp, non nước hữu tình, tiên nữ thường xuất hiện, vậy là có tên Hà Tiên.
- Năm 1679, Mạc Cửu (quê quán Lôi Châu, Quảng Đông, Trung Quốc) vì bất mãn với chế độ nhà Thanh, lưu lạc đến vùng đất Hà Tiên, chiêu tập lưu dân lập nên xứ Hà Tiên. Năm Hiển Tông đời thứ 7, nghe lời mưu sĩ Tô Quân cùng các thuộc hạ Trường Cầu, Lý Xá dâng biểu cầu thân với nhà Nguyễn. Kể từ ngày đó, Hà Tiên trở thành mảnh đất cuối cùng của đất Việt về hướng Tây Nam.
- Vào thế kỉ 18, Hà Tiên là một thị trấn buôn bán sầm uất, một hải cảng luôn có mặt các tàu buôn phương Tây và các nước Nam Á, trong hải trình từ Tây sang Đông và ngược lại. Những tàu này thường xuyên cập bến, những hiệu buôn của người Hoa lẫn người Việt lần lượt mọc lên, buôn bán nhộn nhịp. Quán xá, hiệu ăn và các cửa hàng mỹ nghệ bày bán mời gọi mọi người. Bãi biển quanh năm đông người. Những lưu dân từ các tỉnh miền ngoài lũ lượt đi thuyền, vượt sóng gió vào Nam, tới đây vừa buôn bán, vừa đánh bắt hải sản mà cũng để giao lưu với người nước ngoài. Một nền văn hóa, thi ca một thời phát đạt, cực thịnh, còn lưu lại tiếng tăm của một thi đàn luôn luôn quyến rũ tao nhân mặc khách từ nhiều địa phương tới ngâm vịnh, ngoạn cảnh.
- Trong lời tựa tập Hà Tiên thập vịnh, Mạc Thiên Tích đã viết: "Trấn Hà Tiên nước An Nam, xưa là đất hoang, từ tiên quân khai sáng đến nay đã hơn 30 năm, mà dân mới được ở yên, hơi biết việc trồng trọt".
- Tuy nhiên công lao khai phá Hà Tiên thuộc về hai cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, biến Hà Tiên thành nơi sầm uất. Mạc Cửu là người Quảng Đông (Trung Quốc), di cư đến sau khi nhà Minh bị tiêu diệt hoàn toàn năm 1645. Vua Cao Miên đã phong cho Mạc Cửu chức Oknha (Ốc nha) để cai quản vùng đất này. Tuy nhiên, do bị quân Xiêm La thường xuyên quấy nhiễu mà Cao Miên không đủ sức mạnh quân sự để bảo vệ. Gia quyến Mạc Cửu đã bị quân Xiêm bắt đem về nước họ. Mạc Cửu trốn thoát về Trũng Kè, sau lại về Mang Khảm khôi phục sản xuất. Mạc Cửu đã thân đến Phú Xuân dâng biểu xin đem 7 xã mà mình khai phá quy phục Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn ưng thuận, lệnh đổi tên đất Mang Khảm thành trấn Hà Tiên, phong Mạc Cửu làm Tổng binh coi giữ.
- Năm 1774, Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Đàng trong thành 12 dinh, nhưng vẫn để lại trấn Hà Tiên, phong Mạc Thiên Tích làm Đô đốc cai trị.
* Tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn
- Năm 1832 vua Minh Mạng đặt ra tỉnh Hà Tiên (một trong 6 tỉnh Nam Kỳ), gồm 1 phủ là An Biên thống lĩnh 3 huyện: Hà Châu, Long Xuyên (sau này là địa bàn tỉnh Long Xuyên) và Kiên Giang (sau này là địa bàn tỉnh Rạch Giá).
* Hà Tiên thời Pháp thuộc
- Ngày 24 tháng 6 năm 1867, tỉnh thành Hà Tiên bị thực dân Pháp chiếm. Năm 1876, Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif) thì tỉnh Hà Tiên cũ bị chia thành 2 hạt tham biện là Hà Tiên và Rạch Giá và hạt tham biện Hà Tiên (đất huyện Hà Châu của tỉnh Hà Tiên cũ) thuộc khu vực Bát Xắc (Bassac).
- Từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Hà Tiên trở thành tỉnh theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh. Năm 1903, đảo Phú Quốc được đặt dưới quyền của đại diện chủ tỉnh Hà Tiên. Tỉnh lị là tỉnh thành Hà Tiên. Từ năm 1913 đến năm 1924, tỉnh Hà Tiên được đặt dưới quyền chủ tỉnh Châu Đốc. Năm 1921, tỉnh Hà Tiên gồm 4 quận: Châu Thành (tỉnh lị), Giang Thành, Hòn Chông và Phú Quốc. Ngày 9 tháng 2 năm 1924, Hà Tiên lại trở thành một tỉnh độc lập.
* Hà Tiên thời Việt Nam Cộng Hòa
- Thời Việt Nam Cộng Hòa, Hà Tiên chỉ là 1 trong số 7 quận của tỉnh Kiên Giang. Quận Hà Tiên gồm 3 xã Mỹ Đức, Phú Mỹ và Thuận Yên, 15 ấp. Nhưng trên các bản đồ Việt Nam do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xuất bản, vẫn ghi hai tỉnh riêng biệt là Hà Tiên và Rạch Giá.
* Sau năm 1975
- Đầu năm 1976, tỉnh Kiên Giang được thành lập. Địa bàn tỉnh Hà Tiên cũ nay là huyện Kiên Lương và thị xã Hà Tiên.
* Hà Tiên ngày nay
- Còn bây giờ khi đến vùng đất này mới thấy Hà Tiên không ra dáng vẻ của một đô thị như trong suy nghĩ của mọi người: không nhà cao tầng, không tiếng còi xe rầm rập suốt ngày, không ồn ào xô bồ... Nơi đây thật lặng lẽ, yên bình như một làng quê xưa với nét uy nghiêm của những chứng tích lịch sử cùng nét hoang sơ của những tạo tác mà thiên nhiên đã ban tặng cho mảnh đất này. Những mái ngói cổ rêu phong nghiêng nghiêng trong nắng chiều, trong cái gió hanh hao mang theo vị mặn của biển đã tạo nét riêng cho xứ sở Hà Tiên.
- Đã đến Hà Tiên không thể nào không ghé thăm từ đường của dòng họ Mạc được khởi đầu từ Tổng binh Mạc Cửu. Khi ông qua đời, nhà Nguyễn đã phong tặng tước hiệu Khai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị công. Những bậc thang đá đưa du khách viếng thăm nơi an nghỉ của những người đã có công khai phá xứ Hà Tiên hơn 300 năm trước. Mạc Cửu giỏi tài dụng binh, Mạc Thiên Tích giỏi văn, người có công lập ra tao đàn Chiêu Anh Các để mỗi mùa trăng tròn ngắm trăng làm thơ tại Bảo nguyệt liên trì (đối diện đền thờ Mạc Công)... Hà Tiên có Thạch Động còn gọi là Vân Sơn. Chẳng biết tự bao giờ mà người dân Hà Tiên tự hào: Thạch động chính là nơi khởi nguồn của câu chuyện cổ tích Thạch Sanh chém chằn thấm sâu trong ký ức tuổi thơ. Vào sâu trong Thạch Động, thạch nhũ lâu ngày đã tạo những hình thù: con chằn, một cô gái tóc dài mà dân gian quen gọi là Phật Bà Quan Âm... Trí tưởng tượng con người được dịp bay bổng. Từ đây, đi bộ thêm vài bước chân là tới cửa khẩu Xà Xía, bên kia là đất nước Chùa Tháp.
- Còn nhiều lắm những di tích, thắng cảnh của xứ Hà Tiên: đình Nguyễn Trung Trực, mộ Bà lớn tướng Lê Kim Định, đền Phó Cơ Điều, Sắc tứ Tam bảo tự, chùa Phù Dung (còn gọi là am Phù Cừ)... mà người dân tự hào là Hà Tiên thập cảnh. Có thể nói vùng đất Hà Tiên hội tụ được hầu hết dáng vẻ của nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong nước. Hãy đến Hà Tiên một lần để hiểu và yêu hơn mảnh đất đầu sóng ngọn gió.
Hà Tiên thập vịnh
" Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình
Non non nước nước gẫm nên xinh
Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy
Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh
Tiêu Tự, Giang Thành uông trống ỏi
Châu Nham, Kim Dự cá chim doanh
Bình San, Thạch Động là rường cột
Sừng sững muôn năm vẫn để dành"
- Được người xưa gọi là thập cảnh thiên phú với những cái tên tứ âm rất tuyệt là Hà Tiên thập vịnh do Tổng trấn Mạc Thiên Tích đề xướng từ năm Bính Thìn 1736: Đông Hồ Ánh Nguyệt, Bình San Điệp Thúy, Thạch Động Thôn Vân, Lộc Trĩ Thôn Cư, Kim Dự Lan Đào, Tiêu Tự Thần Chung, Châu Nham Lạc Lộ, Giang Thành Dạ Cổ, Lư Khê Ngự Bạc, Nam Phố Trừng Ba.
- Mười bài thơ ca ngợi cảnh đẹp được thiên nhiên ban tặng, mỗi nơi có một sắc thái riêng biệt, nơi nào cũng đáng được khám phá, chiêm ngưỡng, nếu bỏ sót một nơi là xem như ta chưa đến Hà Tiên.
- Bình San điệp thúy - một trong mười cảnh đẹp nhất của Hà Tiên, đứng trên núi Bình San, Hà Tiên hiện ra trong nắng sớm ban mai hoặc trong buổi chiều tà, lúc nào cũng thơ mộng, một bên là núi Voi Phục, bên kia là biển Đông mênh mông, màn nước trong xanh đến tận chân trời, càng tôn thêm vẻ đẹp của Hà Tiên mà không nơi nào có được.
- Thạch động thôn vân, chính là nơi khơi nguồn câu chuyện cổ tích Thạch Sanh chém chằn, vào sâu trong Thạch Động chiêm ngưỡng nét đẹp của thạch nhũ như nét cọ vẽ của thiên nhiên, với những hình thù khơi gợi trí tưởng tượng của con người, tạo cho Thạch động một vẻ huyền hoặc. Từ đây, đi ngược về hướng Tây khoảng 3km tới cửa khẩu Xà Xía, nơi giao lưu buôn bán khá sầm uất của cư dân người Việt và bên kia là cư dân đất nước chùa tháp. Xuôi về hướng nam, dọc theo phía biển là thắng cảnh nổi tiếng Hòn Chông ngắm nhìn hòn Phụ Tử ngày đêm sóng vỗ, thăm di tích Chùa Hang và chỉ cần mươi phút bồng bềnh trên sóng là đến hang Gia Long, ngắm cảnh sắc và hít thở không khí trong lành, vị mặn của biển và cảm nhận sự yên tĩnh trầm mặc của thời gian.
- Đã đến Hà Tiên, muốn hiểu thêm lịch sử khai mở vùng đất này, không thể nào quên viếng thăm từ đường dòng họ Mạc, khởi đầu từ Tổng binh Mạc Cửu. Khi ông qua đời, nhà Nguyễn đã phong tước hiệu Khai trấn Thượng trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị công, thăm nơi yên nghỉ của những người đã có công khai phá đất Hà Tiên hơn 300 năm trước. Mạc Cửu giỏi tài dụng binh, Mạc Thiên Tích giỏi văn thơ, người đã có công lập ra tao đàn Chiêu Anh Các để mỗi tuần trăng tròn, ngắm trăng làm thơ tại Bảo nguyệt liên trì.
- Thăm đình Nguyễn Trung Trực, mộ Bà lớn tướng Lê Kim Định, đền Phó Cơ Điều, sắc tứ Tam Bảo tự, chùa Phù Dung... niềm tự hào không chỉ của cư dân Hà Tiên, mà đó còn là niềm tự hào của bao thế hệ người Việt Nam, chung sức chung lòng vì một Hà Tiên không ngừng phát triển.
- Ngày nay, Hà Tiên đang khoác lên mình một màu áo mới, kết cấu hạ tầng đang được đầu tư hoàn chỉnh để khai thác tiềm năng của vùng đất được thiên nhiên ưu đãi nhiều mặt. Đặc biệt là sự đầu tư để phát triển du lịch, dịch vụ một thế mạnh có một không hai ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thời điểm này, đến Hà Tiên ta sẽ thấy được sự thay đổi đến diệu kỳ, ngày xưa khai hoang mở đất, thì ngày nay Hà Tiên đang có những dự án lấn biển ngoạn mục, xây dựng lên những đô thị hiện đại mà cảnh quan thiên nhiên vẫn được bảo tồn nghiêm ngặt, giá trị văn hóa lịch sử ngày càng được nâng lên với nhiều lễ hội độc đáo, nhằm tưởng nhớ công lao và giáo dục truyền thống yêu nước của bao thế hệ “công thần lập quốc”... Vì một Hà Tiên phát triển bền vững trong tương lai.
* Núi Tô Châu
- Tô Châu là tên một dãy núi nằm ở phía Tây thắng cảnh Đông Hồ, thuộc phường Tô Châu, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Tô Châu bao gồm hai ngọn là Đại Tô Châu và Tiểu Tô Châu. Tuy không phải là một trong 10 cảnh đẹp của Hà Tiên, nhưng núi Tô Châu vẫn mang một nét đẹp riêng không lẫn vào đâu được, và chính nó cũng tô điểm một phần cho thắng cảnh Đông Hồ.Trên đỉnh Tiểu Tô Châu có rất nhiều chùa chiền, tịnh xá nằm ẩn mình dưới vườn cây trái xum xuê, rợp bóng. Từ trên đỉnh núi này, có thể nhìn thấy toàn cảnh Hà Tiên trập trùng giữa biển trời mây nước. Dưới chân núi là bến đò Tô Châu, đi qua trung tâm thị xã. Cảnh tượng này gợi người ta liên tưởng tới bến nước Tô Châu ở Trung Hoa. Ngày nay, bến đò này đã được thay bằng cầu nổi Hà Tiên và cầu đúc Tô Châu kiên cố.
* Cầu Tô Châu:
- Khởi công: 
15/6/2000
- Khánh thành: 
25/9/2002
* Hà Tiên
- Tà Ten là một ấp cư dân cổ ở hướng Đông Bắc thị xã Hà Tiên, nằm bên bờ trái sông Giang Thành. Khi xưa, người Khmer gọi sông này là Tà Ten (sau là Prêk Ten). Tà có nghĩa là sông, Ten là tên sông. Về sau chữ Tà được đổi là Hà và Ten được biến thành Tiên. Sách Nghiên cứu Hà Tiên viết: Cách giải thích cũ “nơi đây xưa kia có tiên hiện xuống đi lại trên sông, nên gọi là Hà Tiên” là không có căn cứ và thiếu khoa học.
* Phương Thành
- Là một tên gọi của Hà Tiên xưa. Vương Hồng Sển giải thích: Xưng Hà Tiên là Phương Thành là vì đắp lũy tre giáp vòng để chống quân Xiêm, Miên. Đồng ý kiến này có Trần Thiêm Trung, trong Hà Tiên địa phương chí (1957) ông viết: 
“Tại trấn lỵ, một thành vuông, đặt tên Phương Thành, chung quanh bao bọc chiến lũy, trồng tre gai, vì thế còn có tên chung là Trúc Bàn Thành" Nhưng vì đâu có cái tên Phương Thành, sách Nghiên cứu Hà Tiên của Trương Minh Đạt, giải thích: "Ở Hà Tiên có núi Bà Lý (Pang Li), cao 30m, người Hoa đọc chệch là Pang-Lũy, rồi nó trở thành Pang Thành, rồi Việt hóa thành Phương Thành" .
* Núi Bình San – Lăng Mạc Cửu
- Đi thẳng đường Mạc Cửu khoảng 200m là Núi Lăng, còn gọi là Bình San. Ngọn núi theo phong thủy như cái bình phong che chở cho thị xã. Ao sen ở chân núi do Mạc Thiên Tích (con Mạc Cửu) cho đào.
- Điện thờ do triều Nguyễn xây, gọi là Trung Nghĩa Từ. Chánh điện thờ: Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, Mạc Tử Sanh, hai bên thờ bài vị các quan và các phu nhân.
- Trên núi hiện còn 45 ngôi mộ của dòng họ Mạc. Lớn nhất và cao nhất là mộ Mạc Cửu. Mộ xây theo kiểu người Hoa, trước mộ mỗi bên có đầu rồng, sư tử, quan hầu. Đứng ở mộ Mạc Cửu ta có thể ngắm nhìn toàn cảnh Hà Tiên.
* Cô Năm Hà Tiên
- Con gái thứ năm của Mạc Cửu là Mạc My Cô, mới sinh tóc dài cả thước, 3 tuổi răng đã mọc đủ, ăn nói khôn ngoan. Chỉ có bị liệt phải nằm một chỗ. Trong nhà cho là điềm xấu, đem chôn sống. Cô rất linh thiêng, bài vị thờ Mạc My Cô trong điện thờ trông ra cửa phụ bên trái (ngoài đường nhìn vào). Những kẻ gian tà qua cổng này đều bị Cô Năm vật chết. Dân trong vùng sợ hãi nên mới xin xây bít cửa này lại.
* Phù Dung:
- Tên Phù Dung Vạn Sơn được đặt cho quần thể núi non ở Hà Tiên, chính là do tên gọi Phù Youn. Người Xiêm gọi “phù” là núi. Tất cả người Xiêm, Khmer, Chăm, Lào đều gọi người việt là “Youn” hay “Duôn” (tiếng Phạn có nghĩa là người man di ở hang động). Tên Phù Youn được người Hoa phiên âm thành Phù Dung. Như vậy “Phù Youn” có nghĩa là vùng núi của người Việt.
- Chùa Phù Dung nằm trên đường Phương Thành, cách chùa tam Bảo khoảng trăm mét. Chùa nhỏ, với tượng Ngọc Hoàng.
- Mạc Thiên Tích có người vợ lẽ là Nguyễn Thị Xuân, tên hiệu là Phù Cừ. Bà xinh đẹp, lại giỏi thơ văn, đuợc Mạc Thiên Tích rất yêu mến. Cũng vì vậy mà bị bà vợ chính ghen ghét, đem trói nhốt vào lu nước chờ chết. May gặp lúc trời sắp mưa, Mạc Thiên Tích sai mở lu hứng nước, tình cờ cứu được. Quá chán ngán và sợ hãi, bà xin đi tu. Ngôi chùa này được Mạc Thiên Tích lập nên dành cho bà. Sau chùa vẫn còn phần mộ dành cho bà, gọi là mộ bà Dì Tự
* Chùa Sắc Tứ Tam Bảo
- Số 328 đường Phương Thành (kế hông nhà thờ). Đây là ngôi chùa cổ được xây dựng cùng thời với Trấn Hà Tiên. Khi Mạc Cửu đã thành danh, cho đón mẹ từ Trung Quốc sang cư ngụ ở chùa này. Tượng Phật Di Đà bằng đồng trên chánh điện có từ thời Mạc Cửu
* Mũi Nai
- Xa xưa, gọi là Mũi Nạy, vì nơi đó có núi Pù Nạy mà người khmer nói trại là P’Nay hay Bà Nay. Lớp người Việt đến sau bắt chước đọc âm này thành Nai. Đến thời Mạc Thiên Tứ, nhóm người Hoa dịch chữ Nai ra chữ Hán là Lộc (Lộc Trĩ sơn, Lộc trĩ thôn cư)…
- Nếu có dịp ghé thăm Hà Tiên, không đến Mũi Nai là có phần thiếu sót. Cát biển Mũi Nai nâu sậm, khi những làn sóng chồm lên, quyện vào, một màu đen nhánh hiện ra, thật lạ lùng. Theo người dân địa phương, màu đen này là do cát biển nơi đây chứa rất nhiều bùn. Mà bùn lại là một chất dưỡng da tuyệt hảo. Một ngày nằm đắp cát bùn trên bãi biển sẽ giúp bạn có một làn da rám nắng rất rắn rỏi. Biển Mũi Nai thoai thoải, khá nông nên rất an toàn khi tắm.
- Khu du lịch Mũi Nai đã xây dựng một công viên nước mini ngay sát biển dành cho trẻ em, các bé có thể tha hồ nghịch sóng, chơi cát, trượt nước mà phụ huynh chẳng phải lo ngại gì cả. Mũi Nai còn tự hào về vấn đề an ninh. Các gánh hàng rong, bán vé số hay những người ăn mày không được phép vào khuôn viên bãi tắm. Hành lý, tư trang của khách luôn được an toàn, là yếu tố quan trọng giúp bạn yên tâm khi tắm biển.
- Cạnh bãi tắm là một cái “chợ” nhỏ, bán đủ sản vật biển tươi sống. Nhưng du khách có kinh nghiệm thường thích ngồi chờ đến chiều, khi các ghe đánh cá trở về. Nào cá, tôm, mực, sò, không nhiều lắm, nhưng rất rẻ và rất ngon. Thưởng thức hải sản xong, bạn uống ly nước thốt nốt ngọt và thơm, thật tuyệt vời! Vắng và tự nhiên là một nét riêng, quyến rũ những ai muốn về với Mũi Nai. Nhưng muốn tận hưởng cảm giác lãng mạn của biển, bạn nên chờ đến buổi chiều. Cứ ngồi xoải chân trên cát, im lặng nghe tiếng lao xao của gió vờn trên sóng, của bầy hải âu chao lượn cuối trời mới thấy hết thi vị của biển. Rồi hoàng hôn xuống dần, đỏ ối một vùng trời.
- Thông thường, vùng biển thì không giàu có về các loại cây ăn trái. Hà Tiên cũng thế. Nhưng bù lại, “hàng xóm” của vùng đất này lại là một vùng trù phú bạt ngàn cây ăn trái. Mùa nào thức ấy, Mũi Nai tuyển chọn cho những vị khách quý của mình các loại trái cây ngon nhất. Bạn có thể chọn hoa quả trong những chiếc xe đẩy ngay khu “chợ” nhỏ, hoặc gọi các loại trái cây đã được cắt gọt và ướp lạnh sẵn để dùng ngay. Một lời khuyên chân tình cho những ai “hảo” sầu riêng: “Hãy ăn bằng bàn tay vừa nghịch nước biển”. Một chút mằn mặn của muối biển lan nhẹ vào cái ngọt, cái bùi của thứ trái vỏ đầy gai này sẽ tạo nên một hương vị là lạ khó quên.
- Vùng biển Hà Tiên còn sở hữu một món quà mà ai cũng phải nhớ: huyền và đồi mồi. Một chiếc lược đồi mồi nho nhỏ cẩn hai bông hoa cúc bằng xà cừ óng ánh, một cây thoa cong cong hay đơn giản là một chiếc nhẫn bé tẹo là những món quà xinh xắn, độc đáo mà bạn sẽ gây bất ngờ cho người thân khi trở về.
* Mang Khảm
- Mang là phiên âm Hán - Việt của Mường (tiếng Mường- Thái). Về chữ Mang, Trịnh Hoài Đức giải thích: “Những chỗ người Bắc địch tụ hội, chỗ lớn gọi là Bộ, chỗ lớn gọi là Bộ, chỗ nhỏ gọi là Lạc; người Xiêm, lào đều gọi là Mang, người Khmer gọi là Súc."Khảm, người Khmer nói là Krom, tiếng Mã Lai gọi là Kram, tiếng Nôm gọi là Hỏm hay Tràm có nghĩa thấp, ngập. Cho nên Mang Khảm (tức trấn Hà Tiên) có nghĩa là “xóm dân vùng nước ngập”. Theo Nghiên cứu Hà Tiên, “bởi khởi đầu bằng chữ Mang, đơn vị dân cư theo ngôn ngữ Mường – Thái, nên có thêm một lý do nữa để xác định rằng đây không phải là đất Chân Lạp. Người Chân Lạp (Khmer) chỉ dùng chữ Srock (hay Súc) hoặc Phum.
* Thạch Động
- Từ Trung tâm thị xã Hà Tiên theo quốc lộ 80 đi về hướng biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia độ 3km, du khách đã trông thấy một khối đá vôi khổng lồ cao chừng 50m, đứng sừng sững trên một vùng đất trống chẳng khác nào một pháo đài tiền tiêu ngày đêm canh giữ an ninh cho một vùng biên địa. Nhiều hôm, từng đám mây trắng bay chầm chậm đi qua đỉnh động, có đám thì sà xuống thấp len lỏi qua các ngóc ngách của cửa hang tạo ấn tượng như động đá đang nuốt chửng những đám mây. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Mạc Thiên Tích đã đặt tên cho cảnh trí này là "Thạch Động thôn vân", tức động đá nuốt mây, là một trong 10 cảnh đẹp nổi tiếng của đất Hà Tiên và xếp vào hàng thứ năm trong 10 bài tổng vịnh
- Lối vào có 
“bia Căm Thù”, ghi lại cuộc thảm sát 130 người dân vô tội của lính Pôl Pốt năm 1978.
- Bên ngoài nhìn vào ta thấy 2 chỏm đá nhô ra ngoài, tùy theo vị trí ta đứng sẽ thấy giống hình đầu chim đại bàng hay bầu vú. Điều đặc biệt là tảng nằm ngay cửa hang thường có nước chảy ra nên người dân gọi là Vú Mẹ, còn tảng kia thì khô ráo nên gọi là Vú cha.
- Khi leo lên một đoạn dốc là đến trước cửa động, phía trên có đề ba chữ "TIÊN SƠN TỰ", hai bên là hai câu đối
"Thạch thượng linh lung lưu ngọc dịch
Đặng trung tĩnh địa ẩn Kim tiên".
- Bước vào bên trong động, một bầu không khí mát lạnh lan tỏa khắp nơi. Cũng giống như các hang động đá vôi khác, ánh sáng bên trong Thạch Động mờ ảo lung linh. Hang khá rộng và sâu, những khối thạch nhũ mang đủ hình thù kỳ dị, có người tưởng tượng là con trăn tinh trong chuyện cổ tích thần thoại, có hình thù giống các muông thú, có hình lại giống một người đàn bà mà theo dân gian truyền tụng, thì đó là Phật bà Quan Âm, có tượng thì cho đó là Thạch Sanh…
- Và, cũng theo truyền thuyết dân gian, câu chuyện Thạch Sanh chém trăn tinh ở hang sâu lại gắn liền với Thạch Động này. Có lẽ vì thế mà phần lớn người Khơ-me sống quanh vùng đều mang tên họ Thạch chăng? Ở đây, trước kia có một cái hang sâu thăm thẳm và khá nguy hiểm cho những khách tham quan có óc tò mò, khám phá khi vào hang động nên người địa phương đã lấp miệng hang từ lâu. Tương truyền, hang động này ăn thông ra vịnh Thái Lan nên một khi thả những trái dừa xuống hang sẽ có thể tìm thấy nó ở bãi biển Mũi Nai sau đó.
- Trong động còn có đường đi lên lưng chừng núi, đến tận vòm hang. Từ đây du khách có thể phóng tầm mắt nhìn sang đất Cam-pu-chia với các phum sóc ẩn hiện dưới chân đồi hay nhìn toàn cảnh thị xã Hà Tiên thơ mộng thu nhỏ trong tầm mắt, và xa xa là vịnh Thái Lan nhấp nhô những hòn đảo cùng các ghe thuyền chấm phá trên màu xanh của biển nước…
"Thạch Động thôn vân" thật xứng đáng là một cảnh đẹp của "Hà Tiên thập cảnh" được Mạc Thiên Tích trong tao đàn Chiêu Anh Các đề cao trong bài thơ tổng vịnh mười cảnh đẹp:
"Bình Sơn, Thạch Động là rường cột
Sừng sững muôn năm vẫn để dành."
* Cây Thốt nốt
- Có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới châu Phi như Ethiopia, Niger, Nigeria, miền bắc Togo, Senegal v.v, miền nam châu Á và New Guinea. Chúng là các loại cây thân cau/dừa cao thẳng đứng, có thể cao tới 30 m. Lá dài, hình chân vịt, dài 2 - 3 m. Các lá chét dài 0,6-1,2 m. Cuống lá (mo) mở rộng. Hoa nhỏ, mọc thành cụm dày dặc, thuộc loại đơn tính khác gốc. Hoa đực nhỏ, có 3 lá đài, 3 cánh rời xếp lợp, 6 nhị ngắn, bao phấn 2 ô. Hoa cái to, gốc có lá bắc, đài và tràng rời, bầu hình cầu, có 3 - 4 ô, 3 đầu nhị cong. Quả lớn màu nâu hoặc nâu hạt dẻ hình dạng hơi tròn với 3 hạch, hạt thuôn chia 3 chùy ở đỉnh. Tại Việt Nam mọc và được trồng ở các tỉnh khu vực Nam Bộ giáp với Campuchia. Tên gọi thốt nốt trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Khmer th'not. Đây là loài cây biểu tượng không chính thức của Campuchia.
- Các loài thốt nốt có tầm quan trọng kinh tế đáng kể và được trồng rộng rãi trong các khu vực nhiệt đới. Cây thốt nốt là một trong những cây có tầm quan trọng nhất của Ấn Độ từ rất lâu, tại đây người ta sử dụng thốt nốt theo trên 800 kiểu khác nhau. Lá của nó được dùng làm mái che, thảm, giỏ, quạt, mũ, ô dù, cũng như làm vật liệu như giấy để viết.
- Các lá với kích thước, hình dạng và kết cấu phù hợp, không quá già không quá non được chọn. Sau đó đem luộc với nước muối và bột nghệ. Đây là công đoạn bảo quản. Các lá này sau đó được sấy khô. Khi chúng đủ khô, mặt lá được đánh bóng bằng đá bọt và cắt ra theo các kích cỡ thích hợp. Tại một góc người ta đục lỗ. Từ mỗi lá có thể làm ra 4 trang. Việc viết trên loại "giấy" này cần dùng bút châm. Lối viết là dạng chữ thảo và nối liền với nhau. Các lá sau đó được buộc lại với nhau thành các thếp.
- Các cuống (bẹ) lá cũng có thể dùng làm hàng rào và có thể lấy ra sợi rắn chắc phù hợp cho việc làm thừng, chão hay chổi. Gỗ màu đen là loại gỗ cứng, nặng và bền, có giá trị trong xây dựng.
- Từ cây này người ta cũng tạo ra nhiều loại thức ăn. Các cây non được đem nấu nướng như là một loại rau hoặc nghiền, giã hay nướng để làm thức ăn. Quả được ăn dưới dạng tươi hay nướng, người ta còn ăn cả các hạt non tựa như thạch. Dịch ngọt có thể thu được từ các bông mo non (kể cả hoa đực lẫn hoa cái). Nó được dùng lên men để làm một loại đồ uống, gọi là rượu arac, hoặc được cô đặc để sản xuất một loại đường thô gọi là đường thốt nốt. Tại Indonesia người ta gọi nó là Gula Java (đường Java) và được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực của người dân Java. Ngoài ra, nhựa từ thân cây cũng được dùng làm một loại thuốc nhuận tràng. Các giá trị y học cũng đã được quy cho các phần khác của cây.
* Khu vực Hòn Chông
Từ thị xã Hà Tiên, ngược con đường đi Rạch Giá, đến Ngã Ba Hòn (20 km) thì rẽ tay phải đi tiếp 12 km đến mũi Hòn Chông
* Động Mo So
- Mo so là khối núi đá vôi, phần giữa bị xâm thực, sụp xuống thành một thung lũng tròn. Vách đá bị những dòng sông ngầm, sóng biển xoi thành những hang động, Bên trong giống ruột cá sấu nên còn được gọi là Hang Cá Sấu. Đường đi Mo So hiện nay chỉ thích hợp cho xe gắn máy hoặc đi thuyền.
* Chùa Hang
- Chùa nằm trong hang đá thông hai đầu. Đi vào bằng cổng chính trên có tên chùa “Hải Sơn Tự”. Đi hết hang tối mò thì ra bãi biển sáng ngời có Hòn Phụ Tử nổi bật trên nền biển xanh. Trong chùa có hai tượng Phật đầu nhọn kiểu tượng Miên hay Thái Lan. Truyền thuyết về hai tượng này liên quan đến Nguyễn Ánh. Theo lời kể thì một cô gái trong đoàn tùy tùng của Nguyễn Ánh khi đi thuyền qua đây gặp sóng lớn, cầu xin đức Phật phù hộ. Đến Thái Lan, cô lấy vua Xiêm, sinh được hai người con. Nhớ lời cầu khẩn năm xưa, bà sai hai con tạc tượng đưa về chùa Hang thờ.
* Hòn Phụ Tử
- Theo quyết định của Bộ Văn hóa - thông tin năm 1989, hòn Phụ Tử (xã Bình An, huyện Kiên Lương) được công nhận là danh lam thắng cảnh quốc gia. Hình dạng hòn Phụ Tử gồm hai khối đá dính liền nhau đứng trên một bệ đá có chiều cao 5m so với mặt biển. Trong đó hòn Phụ có chiều cao khoảng 33,6m và hòn Tử cao khoảng 30m. Theo báo cáo nhanh của Trung tâm Xúc tiến thương mại - du lịch Kiên Lương, phần gãy của hòn Phụ Tử là 20m, đường kính 20m, khối lượng khoảng 1.000 tấn. Vị trí ngã ngang về hướng đông. Phần còn lại chỉ còn khoảng trên 13m.
* Sự tích Hòn Phụ Tử
"Sự tích kể rằng xưa kia vùng này có hai con thuồng luồng sống đã ngàn năm rất to lớn, hung dữ, thường nhận chìm các thuyền đánh cá qua lại, đêm đến trườn lên bờ bắt người và súc vật, dân làng kinh hãi bỏ đi gần hết. Ngày nọ có hai cha con vị pháp sư đi ngang qua đây thấy cảnh nhà trống, ruộng vườn bỏ hoang nên động lòng thương, muốn ra tay trừ thủy quái. Hai cha con lập bàn tế thần linh rồi chèo thuyền ra khơi tìm thủy quái. Biển bỗng nổi sóng gió, từ xa hai con thủy quái chờn vờn bơi tới. Hai cha con miệng ngậm đạo bùa, tay cầm gươm thiêng lội tới nghinh chiến. Trận chiến thật ác liệt, hai con thủy quái bị thương máu loang hồng mặt biển. Trừ xong thủy quái, chèo thuyền vào bờ thì bỗng nhiên thuyền và hai cha con hóa đá thành hòn Phụ Tử."
- Nhìn từ xa thấy cụm hòn Phụ Tử có dáng như chiếc thuyền và hai cha con tựa vào nhau thành một thế vững chắc, sừng sững như đêm ngày canh giữ cho dân làng được yên ổn làm ăn sinh sống. Hòn Phụ Tử còn gợi vóc dáng hai mũi tên đặt trên bệ phóng. Nơi đây từng chứng kiến những thương thuyền Bồ Đào Nha, những cánh buồm của bọn cướp biển, những chiếc thuyền của Nguyễn Ánh, Tây Sơn, Nguyễn Trung Trực, rồi đến thuyền áp tải lương thực và vũ khí của quân dân ta trong hai cuộc khánh chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Khoảng 3g45 ngày 9-8, hòn Phụ Tử - một trong hai biểu tượng tự hào của người dân Kiên Giang - đã đột ngột ngã xuống biển phần hòn Phụ. Tại hiện trường, hòn Phụ Tử chỉ còn lại phần hòn Tử, phần cha đã chìm hẳn dưới làn nước đục ngầu của mùa biển động.
- Sáng 9-8, hàng trăm người dân đổ dồn về đây để xem. Tại hiện trường, hòn Phụ Tử chỉ còn lại phần hòn Tử (phần hòn con nhỏ hơn), phần cha (theo cách gọi của người dân ở đây) đã chìm hẳn dưới làn nước đục ngầu của mùa biển động.
- Chính vì lẽ đó, dù vừa qua, hòn Phụ, hòn Tử đã gặp biến cố nhưng chắc chắn sẽ sớm được phục dựng để tiếp tục cuộc chiến với thủy quái, bảo vệ những người dân lành mỗi sáng ra biển. Để thấy hết cái thi vị của Hòn Chông, du khách cũng có thể nghỉ lại đây, thưởng thức mọi dư vị mặn mòi, nghe thì thầm sóng biển như ru, như hát...
* Hang Tiền
- Ở trong một hòn núi, tuy sát đất liền nhưng cửa hang mở ra phía biển, phải đến bằng thuyền máy. Hang rộng và tối, có những khối thạch nhũ to lớn, vào tham quan phải có đèn pin. Hiện nay, khi có khách vào tham quan, người ta cho chạy máy phát điện cho cháy những bóng đèn nhỏ phía trong.
- Tương truyền Nguyễn Ánh khi chạy chốn Tây Sơn từng trú ở đây, dùng hang làm nơi đúc tiền tiêu dùng. Nên có tên gọi Hang Tiền.

Nhận xét

Đăng nhận xét

Zalo
Facebook
Hotline: 0918 290 015