Translate

Khái quát lịch sử Phật giáo

 

ĐẠO PHẬT

Tôi đi nhặt lá bồ đề,

Tung ra khắp chốn bay về hư vô.

Tâm tôi theo lá nhấp nhô,

Mong sao mỗi lá đều vô tay người.

Tôi đi nhặt lá bồ đề,

Tung cao cho lá bay về muôn phương.

Tôi xin gởi chọn tình thương,

Trong từng chiếc lá soi đường chúng sinh.

Lịch sử Phật giáo có chiều dài hơn 2500 năm, do thái tử Tất Đạt Đa sáng lập ở Ấn Độ;
phát triển phần lớn ở châu Á và lan dần đến phương Tây vào thế kỷ XX.

“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.

Phật giáo nhấn mạnh đến lời dạy của Đức Phật (những vị Phật) và lợi ích của những lời này nhằm dẫn dắt con người đến với sự “Tỉnh Thức”.

Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):

- Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn gọi là Khế kinh, có nghĩa như là một chân lý.

- Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định dành cho 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh hoạt và tu học, đặc biệt là các quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.

- Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.

Tứ diệu đế: đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

- Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời ai cũng phải gặp những điều đau khổ.

- Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở đời, Đức Phật gọi là Tập đế.

- Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó là diệt cái nguyên nhân gây ra đau khổ.

- Đạo đế: là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh thực hành diệt khổ, được vui.

Giáo luật: Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.

- Ngũ giới là 5 giới cấm: Không sát sinh; Không nói sai sự thật; Không tà dâm; Không trộm cắp; Không uống rượu.

- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:

+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;

+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt;

+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.

Bát chính đạo

- Nhóm trí tuệ:

+ Chính kiến: hiểu biết chân
chính: hiểu biết về nhân quả, duyên khởi, hiểu biết về sự vật hiện tượng chân thực, như chúng đang là, không kèm theo cảm xúc, cảm tính, hiểu biết 4 chân lý về khổ và cách thoát khổ, từ đó biểu hiện thái độ sống không làm khổ mình, khổ người.

+ Chính tư duy: suy nghĩ hướng đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí và giác ngộ.

- Nhóm đạo đức:

+ Chính ngữ: lời nói chân chính: lời nói sự thật, lời nói hòa hợp, đoàn kết, mang tính xây dựng, mang lại an vui hạnh phúc cho người khác.

+ Chính nghiệp: hành vi chân chính: không sát sanh, không trộm cắp, không ngoại tình, Các hành vi được khuyến khích: chia sẻ sở hữu hợp pháp với những người kém may mắn hơn, sống chung thủy
một vợ một chồng, giữ sức khỏe để chăm sóc bảo vệ người thân.

+ Chính mạng: nghề nghiệp chân chính để nuôi sống thân mạng: không làm nghề đồ tể vì giết động vật hàng loạt.

+ Chính tinh tấn: nỗ lực kiên trì chân chính: tiếp tục làm những việc thiện đang làm, hiện thực hóa những việc thiện có ý định làm, từ bỏ những việc bất thiện đang làm, loại bỏ ý định về những
việc bất thiện sẽ làm.

- Nhóm thiền định:

+ Chính niệm: sự làm chủ các giác quan trong các tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, thức và ngủ,làm chủ cảm xúc và thái độ sống.

+ Chính định: 4 tầng thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền.

Nhân quả và luân hồi

vLịch sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa, đản sinh năm 624 TCN tại vườn Lâm Tỳ Ni, ngoại ô thành Ca Tỳ La Vệ (ngày nay thuộc xứ Nepal, phía bắc Ấn Độ). Thân phụ của Ngài là vua  Tịnh Phạn và thân mẫu là hoàng hậu Ma Da. Ngài thuộc sắc tộc Thích Ca, có họ Cồ Đàm, và được vua cha đặt tên có nghĩa là Như Ý. Khi đản sanh Ngài bước trên 7 đóa sen và tay phải chỉ trời – tay trái chỉ đất và nói: Thiên thượng thiên hạ – Duy ngã độc tôn – Vô lượng sinh tử – Ư kim tận hỷ” (dịch là: "Trên trời dưới trời – Chỉ có ta là tôn quí –  Kiếp này là kiếp cuối cùng của Ta – Vì không còn sinh tử nữa ").

Năm 16 tuổi, Ngài lập gia đình với công chúa Gia Du Đà La và có một người con trai, tên là La Hầu
La. 

Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường của thế sự sau khi dạo chơi qua 4 cửa thành nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm
ra căn nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Năm 29 tuổi, Ngài rời bỏ cung vàng, vượt sông Anoma, trên con ngựa Kiền Trắc và người hầu Sa Nặc đi tầm sư học đạo, sống một cuộc đời du tăng.

Sau 6 năm học hỏi với nhiều bậc đạo sư nổi tiếng thời đó với nhiều pháp môn tu tập khác nhau, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề, bên bờ sông Ni Liên Thuyền và thề
rằng “Nếu Ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”.

Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài chứng đạt "túc mạng minh" – “thiên nhãn minh" – “lậu tận minh”. Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 35 tuổi.

Bài giảng đầu tiên của Ngài là bài kinh Chuyển Pháp Luân, giảng cho năm anh em Kiều Trần
Như, đệ tử đầu tiên, tại vườn Lộc Uyển (vườn Nai) gần thành Ba Na Lại. Đây là bài giảng tóm tắt tinh hoa của đạo giải thoát, là một Trung Đạo không lệ thuộc vào hai cực đoan của việc nô lệ dục lạc và việc hành khổ thân xác, bao gồm bốn sự thật phổ quát (Tứ Diệu Đế) và con đường diệt khổ gồm tám yếu tố chân chính (Bát Chánh Đạo).

Từ đó, trong suốt 45 năm, Ngài đi truyền giảng con đường giải thoát, thu nhận đệ tử, có người xuất gia theo Ngài và lập thành Tăng đoàn, cũng có người còn tại gia, gọi là các cư sĩ. Vùng truyền giáo của Ngài là vùng Đông Bắc Ấn Độ giáp biên giới xứ Nepal, dọc theo các nhánh thượng nguồn sông Hằng.

Thâp đại đệ tử (mười đệ tử của Đức Phật):

-  Xá-lợi-phất: Trí huệ đệ nhất

-  Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất

-  Ma-ha-ca-diếp: Đầu đà đệ nhất

-  A-na-luật: Thiên nhãn đệ nhất

-  Tu-bồ-đề: Giải không đệ nhất

-  Phú-lâu-na: Thuyết Pháp đệ nhất

-  Ca-chiên-diên: Luận nghĩa đệ nhất

-  Ưu-bà-li: Trì luật đệ nhất

-  La-hầu-la: Mật hành đệ nhất

-  A-nan-đà: Đa văn đệ nhất

Đức Phật nhập Niết Bàn năm 544 trước Tây lịch, lúc Ngài 80 tuổi, tại khu rừng cây Sala, gần thành
Câu Thi La. 

Nhận xét

Đăng nhận xét

Zalo
Facebook
Hotline: 0918 290 015