KINH LỜI DẠY SAU CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
Chính tôi được nghe, lần chuyển bánh xe chánh pháp đầu tiên
,đức Thế Tôn độ tôn giả Kiều-trần-như và lần thuyết pháp sau cùng, Ngài độ
tôn giả Tu-bạt-đà-la. Những người có thể hóa độ, Ngài đã hóa độ tất cả. Vào
đêm cuối trước ngày Niết bàn vô dư, giữa rừng Sa-la, dưới cây song thọ, không
gian thật vắng lặng, yên tĩnh,đức Phật đã nhắn nhủ những điều cốt lõi của chánh
pháp như sau:
Đạo đức thanh cao ,Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời,các
vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ
đui mù được sáng mắt. Phải biết rằng giới luật là bậc Thầy tối thượng. Dẫu có sống
thêm ở đời bao nhiêu năm nữa, Như Lai cũng không ngoài mục đích răn dạy các vị
về giới luật ấy thôi. Người giữ giới thì không được kinh doanh, thương mại, xây
dựng nhà cửa, cày cấy ruộng vườn, đầu tư nông nghiệp, thuê người giúp việc,
theo kiểu thế tục. Không được chặt đốn cây cối, đào đất, móc hang, điều chế dược
liệu, đoán quẻ tốt xấu, xem sao đoán mạng, nghiên cứu địa lý, tìm tòi hưng
suy, hay coi lịch đoán số.
Các vị
nên sống tiết chế thân mạng, ăn uống điều độ, duy trì nếp sống thanh cao,giải
thoát. Không tham dự chính trị, lãnh sứ mạng liên lạc, thông tin. Không được
luyện bùa chú, chế linh dược, giao hảo người quyền quý, kết thân kẻ
ngạo mạn.Cần phải giữ tâm chân thật, sống chánh niệm và tỉnh thức trong từng
phút giây,mong cầu đạo quả giải thoát. Không được che giấu
lỗi lầm, bày điều mê hoặc để thu hút quần chúng. Phải sống ít muốn, biết đủ
đối với bốn phẩm vật, cúng dường. Sống vừa đủ để hành đạo, không
cất chứa tài sản và tiền bạc.Như Lai vừa nói tóm tắt về sự giữ
giới. Giới luật đó là căn bản, là gốc rễ của đạo giải thoát. Nhờ giữ
giới trang nghiêm ,thiền định và trí tuệ phát sanh, có thể tiêu diệt
tất cả đau khổ.Thế nên các vị hãy giữ gìn giới luật một cách trọn vẹn. Người
giữ giới thanh tịnh sẽ nuôi lớn pháp lành.Người thiếu mất giới thì không thể
phát sinh công đức.
Làm chủ giác quan, Này các đệ tử,các vị phải chế ngự năm
giác quan không để chúng dong ruổi theo trần cảnh, dục lạc. Người tu phải như
chú mục đồng cầm roi chăn, không để trâu dẫm đạp lúa mạ của người. Một khi các
vị buông lung năm giác quan, không những các vị không chế ngự được năm thứ dục
lạc, mà các vị cũng không thể dừng được vòng cương tỏa của phóng túng, như con ngựa
chứng nếu không dây cương, nó sẽ lao xuống hầm hố. Nạn khổ của giặc cướp chỉ có
một đời, trong khi nạn giặc giác quan làm chúng sanh đau khổ nhiều kiếp. Tai họa
của nó vô cùng nguy hiểm. Các vị phải cẩn thận.Thế nên, người có trí cần phải
chế ngự các giác quan chứ không phục tùng nó, giữ gìn chúng như là canh chừng
giặc cướp,không để chúng hoành hành, thao túng. Này các đệ tử, trong các giác
quan của con người, ý là quan trọng nhất. Các vị phải thận trọng chế ngự tâm ý
mình. Tâm ý rất đáng sợ, nguy hiểm còn hơn thú dữ, rắn độc, thậm chí nguy hại
hơn cả nạn hỏa hoạn. Cũng như có người mải mê cầm giữ chén mật trên tay và quên
đi hầm hố trên đường, sẽ bị vấp ngã. Cũng như voi say mà không có móc sắt, như
khỉ vượn gặp được cây rừng tha hồ mà chuyền nhảy, muốn chế ngự chúng thì thật
là khó. Vì vậy các vị siêng năng chế ngự tâm mình, để giữ gìn tất cả các pháp
thiện. Khi tâm được chế ngự một chỗ thì không việc gì không thành.
Không màng hưởng thụ,Này các đệ tử, khi thọ dụng phẩm vật cúng dường, các vị nên quan niệm như uống thuốc.
Ngon không ham, dở không chê. Ăn uống chỉ để cho khỏi đói khát.Như ong hút mật
trong hoa, chỉ lấy mùi vị, không làm tổn thương hương sắc. Người xuất gia cũng
vậy: thọ dụng sự cúng dường để đủ sức khỏe tu tập,không được ham cầu quá nhiều,
làm tổn thất tín tâm của tín thí. Hãy như người trí biết lượng sức kéo và chịu
đựng của trâu, không nên dùng trâu quá sức, đến nỗi kiệt lực.
Vượt qua thói quen, Này các đệ tử, ban ngày thì nỗ lực tu tập pháp lành, không để
thời gian trôi qua uổng phí. Đầu hôm, cuối đêm cũng không luống bỏ. Giữa đêm tụng
niệm, tu trì. Đừng vì chuyện ngủ nghỉ mà để cuộc đời trôi qua vô ích. Hãy tâm
niệm rằng ngọn lửa vô thường đang đốt cháy thế gian, để tự tinh tấn độ mình, khắc
phục sự lười biếng, ngủ nghỉ. Giặc phiền não luôn rình rập giết các vị, còn
nguy hiểm hơn kẻ thù, làm sao các vị có thể mặc tình ngủ nghỉ mà không cảnh
giác! Phiền não ngủ trong tâm người cũng như rắn độc nằm trong nhà, phải dùng
móc sắt giới hạnh mà lôi kéo nó ra gấp. Rắn độc ra rồi ta mới an tâm ngủ nghỉ.
Rắn độc chưa ra mà mải mê ngủ nghỉ thì thật là người không biết hổ thẹn.
Trang sức hổ thẹn,Này các đệ tử, sự hổ thẹn là trang sức đẹp
nhất trong mọi trang sức. Sự hổ thẹn có khả năng chế ngự mọi thứ bất thiện và
phi pháp của con người. Thế nên hãy sống với tâm niệm hổ thẹn, đừng bao giờ lãng
quên đức tính ấy. Mất tâm hổ thẹn là mất tất cả công đức. Có hổ thẹn là có tất cả
thiện pháp. Không hổ thẹn thì có khác chi loài cầm thú.
Chuyển hóa sân hận,Này các đệ tử, nếu có ai xúc phạm,thương tổn thân thể các vị, các vị nên kiềm chế tâm mình, đừng để lửa sân hận thiêu đốt. Lại phải giữ lời ăn, tiếng nói,đừng buông lời ác độc để trả đũa ai. Tâm sân hận trỗi dậy sẽ làm băng hoại đạo nghiệp, cháy hết công đức tu tập. Đức tánh của kham nhẫn, ngay cả giữ giới và khổ hạnh
cũng không thể sánh bằng.Thực hành đức nhẫn mới xứng danh là bậc thượng nhân có
sức mạnh. Người nào chưa có thể chịu đựng sự nhục mạ một cách hoan hỷ, như uống
cam lộ, thì chưa thể xứng danh là người vào đạo có trí. Sự sân hận sẽ thiêu hủy tất cả pháp lành, nó nguy hiểm hơn lửa dữ.Các vị phải canh phòng cẩn mật, đừng cho sân hận xâm nhập.Trong các loại giặc cướp công đức thì sân hận là nguy hiểm bậc nhất. Người thế gian sống thọ hưởng dục lạc, thiếu phương pháp chế ngự, nếu có sân hận còn có thể tha thứ được. Người xuất gia hành đạo loại bỏ mọi thứ vui của đời mà không loại bỏ được sân hận thì thật đáng trách, cũng giống như bầu trời quang đãng mà có sấm sét nổi
lên là điều không thích hợp.
Từ bỏ kiêu mạn và dua nịnh,Này
các đệ tử, các vị hãy tự xoa đầu mình và ghi nhớ rằng: các vị đã bỏ tất cả các
mỹ phẩm và trang sức của thế gian,khoác trên mình chiếc áo cà-sa hoại sắc,sống
bằng cách khất thực. Khi nào tâm lý kiêu mạn, cao ngạo nổi lên thì lập tức chế
ngự nó. Kiêu ngạo là tánh xấu mà thế nhân còn không nên có, huống chi là người
xuất gia vì đạo giải thoát, sống bằng khất thực hay sao !
Này các đệ tử, tâm lý dua nịnh trái ngược hoàn toàn với đạo giải
thoát. Thế nên, các vị hãy huấn luyện tâm cho thật chất trực.Nên biết rằng: Dua
nịnh là điều dối trá mà người xuất gia không nên có. Phải làm cho
tâm ý đoan chánh , phát huy đức tánh trung thực. Đó là con đường vào đạo.
Ít muốn,biết đủ,Này các
đệ tử, các vị nên biết rằng người nào tham muốn nhiều thì nhu cầu lợi dưỡng
cũng nhiều, do vậy mà đau khổ càng tăng. Người ít muốn thì không ham cầu, không
đắm nhiễm nên không có tệ hại ấy. Chỉ với lợi ích ấy thôi cũng đủ để các vị phải
trau dồi, thực tập, huống là khi hạnh này còn có công năng phát triển các công
đức! Người ít muốn thì không lấy lòng người bằng cách dua nịnh, lòn cúi và cũng
không bị các giác quan sai xử, thao túng. Hành giả ít muốn, tâm ý được thanh thản,
không còn những ưu tư,phiền muộn, gặp việc thì đủ nghị lực để ứng phó, không việc
gì không làm được.Nói chung, sống hạnh ít muốn tất gần Niết-bàn. Này các đệ tử,
nếu các vị muốn giải thoát mọi đau khổ thì nên thường xuyên tu tập quán biết đủ.
Pháp biết đủ là cơ sở của sự an lạc, hạnh phúc và sung mãn. Người biết đủ dẫu nằm
trên đất vẫn thấy an lạc. Người không biết đủ dẫu sống ở thiên đường vẫn chưa
thấy toại nguyện. Không biết đủ tuy giàu mà rất nghèo. Biết đủ thì tuy nghèo
nhưng rất giàu có. Người không biết đủ là kẻ nô lệ của năm thứ dục lạc thấp kém
và còn là tấm bia đời đáng thương xót đối với hành giả biết đủ.
Tâm hạnh thoát tục ,Này các đệ tử, muốn đạt đạo tịch tịnh,vô vi, an lạc, các vị phải xa lìa những chốn huyên náo, sống một mình ở những nơi an nhàn, thanh vắng. Người ở chỗ yên tĩnh thì trời Đế-thích và chư Thiên đều kính trọng.Vì thế, các vị nên
xa lìa hội chúng, sống đơn độc thư thái và cắt đứt gốc rễ đau khổ bằng tư duy
trí tuệ. Người thích hội chúng thì bị hội chúng nhiễu loạn, như cây cổ thụ mà
có nhiều chim tụ tập thì có thể bị hư cành. Thế gian trói buộc con người trong
đau khổ cũng giống như con voi già bị sa lầy, khó mong thoát khỏi. Đó là hạnh
siêu thoát, các vị cần ghi tâm.
Tinh tấn không dừng,Này các đệ tử, nỗ lực tinh tấn thì không việc
gì khó khăn. Thế nên các vị phải siêng năng, tinh tấn như giọt nước thường nhỏ
có thể xuyên thủng đá. Người tu hành mà biếng nhác thì khác nào như người cọ cây
lấy lửa, cây chưa kịp nóng đã nghỉ,dầu tha thiết muốn có được lửa, lửa cũng không
vì thế mà có được. Hãy siêng năng tinh tấn không dừng.
Thắp sáng chính niệm,Này các đệ tử, thực ra cầu cạnh thiện tri thức hay người trợ lực không bằng tự mình đề cao chánh niệm, tỉnh thức. Có chánh niệm thì giặc phiền não không thể xâm nhập được. Thế nên các vị phải sống trong sự nhiếp niệm. Mất chánh niệm là đồng nghĩa với mất công đức. Có được chánh niệm vững chãi thì dù sống trong môi trường ngũ dục cũng chẳng hề gì, như người chiến sĩ vào trận có áo giáp thì không còn sợ gì nữa.
Thể nghiệm chánh định,Này các đệ tử, nhiếp phục được tâm ý là
làm cho tâm an trụ vào định. Tâm trụ thiền định thì sẽ thấu triệt được trạng
thái sinh diệt, chuyển biến của thế giới. Các vị phải tinh tấn tu tập thiền định.
Tâm định thì trạng thái chao động, tán loạn sẽ tiêu mất cũng như người biết
cách giữ nước thì phải bảo vệ tốt đê điều. Cũng vậy,muốn có nước trí tuệ, các vị
phải khéo tu tập thiền định, không để cho rỉ chảy.
Nuôi lớn trí tuệ,Này các đệ tử, có trí tuệ thì không có tham trước, luôn luôn tự tỉnh thức và tự dò xét, nhờ đó người ấy có khả năng giải thoát trong giáo pháp của Như Lai. Nếu không có trí tuệ thì không xứng danh là bậc xuất gia. Trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sanh tử, là ngọn đèn sáng chói trong hắc ám vô minh, là dược liệu
thần y của mọi bịnh tật và là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế, các
vị cần trau dồi tuệ giác “văn, tư, tu” để tăng trưởng lợi ích. Người có trí tuệ
soi chiếu thì dẫu là mắt thịt vẫn là người chánh kiến, thấy rõ bản chất mọi vật.
Từ bỏ hý luận,Này các đệ tử, hý luận chỉ làm cho tâm trí rối
loạn. Người xuất gia mà sống hý luận thì không thể đạt được tuệ giác giải thoát.
Vì thế các vị phải nhanh chóng từ bỏ vĩnh viễn tâm lý hý luận, vô ích. Diệt trừ
các hý luận tạp loạn mới có thể đạt được an lạc tịch diệt.
Tự mình cất bước,Này các đệ tử, hãy thường xuyên nhớ đến
các công đức để từ bỏ tất cả mọi phóng dật, như là tránh xa bọn giặc cướp tài sản
thánh. Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã tuyên nói chánh pháp lợi ích rốt ráo. Về
phần mình, các vị hãy nỗ lực tinh tấn thường xuyên, đừng để cuộc đời trôi qua
vô ích, sau này ăn năn, hối hận đã muộn. Như Lai như là vị lương y, rõ biết bịnh
lý, cho toa thuốc hợp bịnh trạng từng người. Uống hay không uống không phải là
lỗi của lương y. Như Lai lại cũng như người chỉ đường, chỉ rõ đâu là con đường nên
đi và hướng đến giải thoát. Biết rõ đường lành mà không chịu cất bước lên đường
không phải là lỗi của vị đạo sư!
Bốn chân lý thánh,“Này các đệ tử, đối với bốn chân lý thánh,
nếu có chỗ nào chưa thấu đáo, thì nên thưa hỏi, Như Lai sẽ chỉ bày cho các con”.
Thế Tôn khuyên nhắc ba lần như vậy , bốn chúng đều im lặng ,không ai còn
thắc mắc.Lúc ấy , tôn giả A-nậu-lâu-đà bạch Phật rằng :
Bạch Thế Tôn, dù cho mặt trăng có thể trở nên nóng, mặt trời có
trở nên lạnh,nhưng Bốn Chân Lý Thánh mà Như Lai đã dạy không thể nào thay đổi
được. Khổ đế là thực trạng đau khổ của cuộc đời: sanh là khổ, già là khổ, bệnh
là khổ, chết là khổ, mong muốn mà không được toại nguyện, thù ghét mà phải gặp
mặt là khổ, thương yêu mà phải chia lìa là khổ, chấp vào năm nhóm nhân thể là
khổ. Tập đế là nguyên nhân của khổ đau, bao gồm dục ái, hữu ái, vô hữu ái,
tham, sân, si và chấp thủ. Diệt đế là trạng thái hết sạch mọi đau khổ và nguyên
nhân đau khổ, là an lạc, Niết-bàn. Đạo đế là con đường dẫn đến an lạc, là tám
chánh đạo, là trung đạo, không có con đường nào khác, đó là tầm nhìn chân
chính, tư duy chân chính,lời nói chân chính, việc làm chân chính,nghề nghiệp
chân chính, tinh tấn chân chính,chính niệm hiện tại và thiền định chuyển hóa.
Bạch Thế Tôn, cả bốn chúng đều không còn thắc mắc gì về bốn chân lý cao thượng
nầy nữa.
Sinh tử an nhiên,Lúc bấy
giờ trong chúng, hàng đệ tử hữu học phải đối diện sự kiện Đức Phật sẽ vô dư Niết-bàn,
đều bi cảm, đau xót.Hàng đệ tử mới vào đạo nghe những lời dạy cuối cùng đều được
hóa độ, như trong đêm tối nhờ có ánh sáng, nên thấy đường đi. Các hàng đệ tử vô
học đã dứt sạch các phiền não, vượt ra khỏi sanh tử, vẫn không ngăn được sự
ngậm ngùi :”Tại sao Đức Thế Tôn vô dư Niết-bàn quá sớm! Lúc đó, Đức
Phật vì thương bốn chúng nên dạy thêm rằng:
Này các đệ tử, chớ có thảm
sầu, đau xót.Dẫu Như Lai có sống thêm ở đời một kiếp nữa, rồi cũng phải đến
ngày Niết-bàn. Hội ngộ mà không chia tay, kết hợp mà không tan rã là điều không
thể có được. Đối với Như Lai, kinh nghiệm và pháp thức lợi mình, lợi người, Như
Lai đều đã tuyên bố. Thật chẳng có lợi ích gì, nếu Như Lai sống lâu nơi đời mà
các vị không thực hành chánh pháp. Những chúng sanh đáng độ, Như Lai đã độ hết.
Những chúng sanh chưa được độ, Như Lai cũng đã tạo nhân duyên để họ được hóa độ.
Từ nay trở đi, đệ tử của Như Lai hãy noi theo truyền thống chánh pháp
mà thực hành. Đó là cách làm cho pháp thân Như Lai thường còn, và mãi mãi bất
diệt ở thế gian. Như Lai vô dư Niết-bàn hay không việc đó không quan trọng.
Này các đệ tử, các vị nên nhận thức rằng mọi vật thể, hiện tượng
trên thế gian này đều chuyển biến, vô thường, có kết hợp thì phải có tan rã, chẳng
có gì để quyến luyến, thương tâm.Cuộc đời là như thế, các vị phải nỗ lực tinh tấn
để tự giải thoát. Dùng ánh sáng trí tuệ để tiêu diệt bóng tối si mê. Đời là một
sự vận hành không kiên định.Như Lai vô dư Niết-bàn như bỏ đi một căn bệnh dữ.
Đó là năm nhóm nhân tính,mang tính tội lỗi, tạm gọi là thân, vì thế,nó phải chịu
sự chi phối không thương tiếc của già, bệnh và chết. Bậc tuệ trí khi thoát khỏi
nó có cảm tưởng như là dẹp xong được bọn cướp. Như vậy, chết không đáng để
hoan hỷ, an lạc hay sao?
Này các đệ tử, các vị phải tha thiết tìm kiếm con đường giải
thoát. Toàn thể thế giới từ những vật thể đang vận động cho đến các vật thể
không vận động cũng đều không thường còn, và không có thực thể, rồi phải
đến lúc hoại diệt.
Thôi, các vị hãy yên lặng, đừng nói thêm lời nào nữa! Đã đến
lúc Như Lai vô dư Niết-bàn.
Đó là những lời dạy cuối cùng của Như Lai.
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Nhận xét
Đăng nhận xét