Translate

Tổng quan Myanmar



Cũng giống như tại nhiều nơi ở Đông Nam Á, tôn giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống của đa số dân Myanmar. Tuy nhiên, một số phong tục tôn giáo rất lạ đối với nhiều du khách.

Thí dụ, những nhà sư hứa nguyện không đụng đến phụ nữ. Vì tôn trọng điều này nên phụ nữ cẩn thận không đến quá gần những nhà sư. Những phong tục tôn giáo còn ảnh hưởng đến cả việc đi xe buýt. Một người Tây Phương có thể thắc mắc khi thấy một bảng chữ trên xe ghi: “Xin đừng hỏi tài xế mấy giờ xe sẽ đến nơi”. Phải chăng tài xế không hứng thú trả lời những hành khách hay nôn nóng? Không. Những người theo đạo Phật ở đó tin rằng các nát (vong hồn) sẽ bực mình với câu hỏi như vậy và có thể làm xe buýt bị trễ.

 

BURMA

- Burma: tên cộng đồng dân tộc lớn 1 Myanmar

- Myanmar (phiên âm: Mi-an-ma, Hán Việt: Miến Điện).

- "Miến Điện"  là tên gọi người Trung Quốc đặt cho Myanmar.

"Miến" có nghĩa là xa tắp, xa vời, xa tít tắp.

"Điện" là chỉ vùng đất nằm bên ngoài.

 

ĐỊA LÝ: Nằm giữa những dãy núi tạo thành biên giới tự nhiên với các nước láng giềng Á Châu là “Miền Đất Vàng”.

- Về phía tây nam có Vịnh Bengal và Biển Andaman vỗ vào bờ chạy dài hơn 2.000 kilômét
- Phía tây là Bangladesh và Ấn Độ;

- Phía bắc là Trung Quốc;

- Phía đông là Lào và Thái Lan.


Đất nước này hơi rộng hơn Madagascar và nhỏ hơn tiểu bang Texas ở Bắc Mỹ

Tên của nó là gì? Myanmar, trước đây được gọi là Miến Điện.

Myanmar – Mianma  đã trở thành điểm đến hấp dẫn đối với nhiều người Việt Nam nhất là những doanh nhân mong muốn và khao khát phát triển công việc làm ăn kinh doanh của mình. Trong những năm qua hàng chục ngày doanh nhân và du khách Việt Nam đã và đang nối tiếp nhau sang tham quan, khảo sát và tiềm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh tại đất nước chùa tháp cổ kính (Tập đoàn HAGL).

 

Đất nước Myanmar – Mianma trước đây Việt Nam chúng ta hay gọi là Miến Điện (từ năm 1989 về trước) sau này đổi tên là  Myanmar nghĩa là vùng đất vàng (Golden Land – Myanmar ) và chúng ta hay gọi theo cách là Mianma.

Myanmar – Mianma nằm ở lục địa Đông Nam Á trong phạm vi 9,32 – 28,31 vĩ Bắc và 92,10 đến 101,11 kinh Đông. Trên bản đồ thế giới, đất nước Myanmar – Mianma trong giống hình con Sam biển đuôi dài.

 

* Tên chính thức: Cộng hòa Liên bang Myanmar là một quốc gia ở Đông Nam Á, tây bắc bán đảo Trung-Ấn.

 

Có 5.876 km đường biên giới:

Với Trung Quốc (2.185 km), Thái Lan (1.800 km), Ấn Độ (1.463 km), Lào (235 km) và Bangladesh (193 km).

Miến điện có thể gọi là Burma, hay Union Myanmar, còn gọi tắt là Myanmar, hay gọi chung là Burmese Myanmar.


Đầy đủ hơn nữa là Pyidaungzu Myanmar Naingngandaw, tức là xứ sở nằm dọc theo bờ Đông Tây của vịnh Bengal và biển Andaman thuộc Đông Nam Châu Á.

- Miền Bắc giáp Trung Hoa (Tây Tạng & Vân Nam)

- Miền đông giáp Lào (238Km), Thái Lan (1.799km).

- Miền Nam giáp Mã Lai Á (Biển Andaman & Vịnh Bengal)

- Miền Tây giáp với biển Ấn Độ, Bangladesh

Một dải giang sơn trải dài qua các đồng bằng, núi non và biển cả. Miến Điện có lịch sử hơn 3.000 năm tồn tại và phát triển.

Ngày xưa Miến Điện được gọi là Bumua và ngày nay là Myanmar.

 

Myanmar có đường bờ biển dài gần 2.000 km. Hầu hết bãi biển ở đây đều quay mặt về hướng tây, nên du khách tới đây thường được chiêm ngưỡng những cảnh hoàng hôn tuyệt diệu. Những bãi biển nổi tiếng nhất là Ngapali, Ngwesaung và... Chaung Thar.

 

Tổng chiều dài bờ biển của Myanmar – Mianma là 2.965 km, chiều dài đất nước Myanmar – Mianma từ Bắc xuống Nam là 2.090km, khoảng cách rộng nhất của phía đông và phía tây là 925km.

Myanmar – Mianma  có vị trí – chiến lược rất quan trọng, nối Đông Nam Á với Tây Á và gần những tuyến đường hàng hải lớn qua Ấn Độ Dương.

 

Tổng diện tích Myanmar – Mianma khoảng 678.500km2, địa hình trải dài, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Phía Bắc, phía Tây, phía Đông của Myanmar – Mianma đều có núi bao quanh, tạo thành thế kép kín với các nước láng giềng. Dãy núi hengduan giáp với Trung Quốc là dãy núi cao nhất Myanmar – Mianma. Với đỉnh núi Hkakabo Riza cao 5.881m so với mặt nước biển.

• Myanmar – Mianma còn có ba dãy núi:Hengduan và Rakhine Yoma tạo thành đường biên giới tự nhiên giữa Myanmar –  với hai nước láng giềng Trung Quốc, Ấn Độ.

ĐẤT ĐAI: Xứ Kim địa

• Myanmar – Mianma  có 03 con sông lớn chảy từ Bắc xuống Nam

- Sông Ayeyarwady dài nhất Myanmar – Mianma 2.150 km
- Sông Thanlwin dài 1.660km
- Sông Sittang dài 420km

Ba con sông này bồi đấp nên những đồng bằng rộng lớn và màu mỡ cho Myanmar – Mianma, trong đó đồng bằng Irrawaddy rộng 35.000km2.

Ba dòng sông lớn kể trên không chỉ tạo ra các đồng bằng, các cánh đồng phì nhiêu nơi nó chảy qua mà còn là tuyến đường thủy quan trọng, giúp cho việc lưu thông giữa các vùng miền dễ dàng hơn mà còn chứa đựng tiềm năng thủy điện to lớn của đất nước Myanmar – Mianma. Với địa hình như vậy thiên nhiên đã tạo cho Myanmar – Mianma hai khu vực địa lý rõ rệt.

 

Khu vực hạ Myanmar – Mianma bao gồm toàn bộ các khu vực vùng ven biển với các đồng bằng, các cánh rừng nhiệt đới rậm rạp và những mỏ dầu khí phong phú.

Thượng Myanmar – Mianma bao gồm các khu vực đồi núi, cao nguyên bao la nằm sâu trong lục địa.

 

LỊCH TRÌNH THAM QUAN SẼ TỚI  CÁC VÙNG RANGON-BAGO-KHAIZITO

  

LỊCH SỬ: Myanmar có một bề dày lịch sử dài, rực rỡ và tương đối phức tạp.

Người Miến - dân tộc đông nhất ở Myanma hiện đại - không phải là những chủ nhân đầu tiên của Myanma.

 

- Từ thế kỷ thứ 2 TCN người Pyu từ Vân Nam (Trung Quốc) đã tới sinh sống dọc Châu thổ sông Irrawaddy;

- Thế kỷ thứ 4 CN, người Pyu đã thành lập các vương quốc xuôi theo phía Nam

 

- Xa hơn về phía Nam là người Môn, di cư từ vương quốc Hariphunchai và vương quốc Dvaravati ở phía Đông đến định cư, thành lập các vương quốc dọc vùng bờ biển hạ Miến vào đầu thế kỷ thứ 9.

 

Người Miến di cư tới thượng lưu châu thổ sông Irrawaddy đầu thế kỷ thứ 9 từ vương quốc Nam Chiếu. Họ đã thành lập vương quốc Pagan(1044–1287), vương quốc này lần đầu tiên đã thống nhất được vùng châu thổ Irrawaddy và bình định được các vùng ngoại biên.

 

Myanmar hay còn gọi là Burma thuộc khu vực Đông Nam Á, Tây Bắc bán đảo Trung-Ấn. Sự đa dạng chủng tộc dân cư ở Myanmar đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chính trị, lịch sử và nhân khẩu học của quốc gia này thời hiện đại. Từng là một nước thuộc địa bên trong Đế quốc Anh cho tới tận năm 1948, Myanmar tiếp tục đấu tranh cải thiện những căng thẳng sắc tộc, và vượt qua những cuộc đảo chính. Nền văn hóa nước này bị ảnh hưởng nhiều từ các nước xung quanh, dựa trên một hình thức Phật giáo duy nhất có hòa trộn các yếu tố địa phương.

  

• Vua Anawrahta, người đầu tiên thống nhất Myanmar

Người Miến di cư tới thượng lưu châu thổ sông Irrawaddy đầu thế kỷ thứ 9 từ vương quốc Nam Chiếu. Họ đã thành lập vương quốc Pagan, vương quốc này lần đầu tiên đã thống nhất được vùng châu thổ Irrawaddy và bình định được các vùng ngoại biên.

- Trong thời vua Anawrahta trị vì (1044-1077), người Miến đã mở rộng ảnh hưởng ra khắp Myanmar hiện nay.

- Tới thập niên 1100, nhiều vùng lớn thuộc lục địa Đông Nam Á đã thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Pagan,thường được gọi là Đế chế Myanmar I, với kinh đô tại Mandalay.

- Vua Anawrahta được xem là vị vua quan trọng nhất lịch sử Myanmar. Lịch sử thành văn của Myanmar chỉ chính thức bắt đầu từ khi ông lên ngôi vào năm 1044. Ông đã thực hiện một loạt cải cách xã hội, tín ngưỡng và kinh tế quan trọng để lại những tác động lâu dài tới lịch sử Myanmar và phát triển thành văn hóa Myanmar hiện đại. Di sản của Anawrahta đã vượt ra ngoài cả biên giới Myanmar hiện đại. Việc ông hậu thuẫn Phật giáo Tiểu thừa và việc ông ngăn chặn thành công sự mở rộng về phía Tây của đế quốc Khmer, một nhà nước theo đạo Hindu, đã giúp cho tông Phật giáo này có được chỗ dựa an toàn và phát triển trong những thế kỷ sau này tại Đông Nam Á.

 

• Vua Bayinnaung, người mở rộng Myanmar thành đế chế lớn nhất lịch sử Đông Nam Á

Sau sự sụp đổ của triều đại Pagan năm 1287 bởi quân xâm lược Mông Cổ, vương quốc này bị chia nhỏ thành các vương quốc Ava, Hanthawaddy, Arakan và Shan.

 

- Những người Myanmar đã phải chạy trốn khỏi Ava thành lập Vương quốc Toungoo năm 1531 tại Toungoo, đây được gọi là Đế chế Myanmar II. Vua Bayinnaung triều Toungoo đã mở rộng đế chế bằng cách chinh phục hàng loạt các vùng lãnh thổ, tạo thành đế chế lớn nhất trong lịch sử Đông Nam Á, tuy chỉ tồn tại trong 1 giai đoạn ngắn ngủi. Các vua Toungoo đã đưa ra các cải cách về hệ thống hành chính và kinh tế, điều này đã đưa đến giai đoạn ổn định, thái bình, và thịnh vượng cho vương quốc vào thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Những cuộc nổi loạn bên trong cũng như sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cần thiết để kiểm soát các vùng mới giành được dẫn tới sự sụp đổ của Vương quốc Taungoo.

 

• Vua Alaungpaya, người khôi phục lại vương quốc và mở ra thời kỳ văn hiến bậc nhất

Vua Alaungpaya thành lập nên Triều đại Konbaung và Đế chế Myanmar III vào khoảng thập niên 1700, khôi phục lại vương quốc, tiếp tục những cải cách của triều Toungoo, điều này mang lại quyền lực thống trị với các vùng lãnh thổ xung quanh, và đã sản sinh ra nhà nước văn hiến bậc nhất tại Đông Nam Á. Vương triều Konbaung trong quá trình phát triển đã gây chiến với tất cả các nước láng giềng. Cuối cùng vương quốc bị biến thành thuộc địa của Đế quốc Anh sau 60 năm xung đột. Thực dân Anh đã cố tình đưa ra những khác biệt giữa các nhóm tộc người nhằm gây chia rẽ, chính vì thế kể từ sau khi độc lập năm 1948 đã rơi vào cuộc nội chiến dai dẳng nhất mà đến nơi vẫn chưa hòa giải hết được.

  

* Tại sao Nhật Bản lại xâm lược Đông Nam Á?

Ngày 7/12/1941, quân Nhật đã bất ngờ tấn công Hạm đội Mỹ ở Trân Châu Cảng, phát động cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, và không đầy nửa năm chúng đã chiếm đóng khu vực Đông Nam Á.

Nhật Bản xâm lược Đông Nam Á có nguyên nhân về nhiều mặt. Trên thực tế, quân Nhật xâm lược Đông Nam Á là một phần trong chiến lược toàn cầu của chúng.
Trong Thế chiến thứ 2, Đức-Ý-Nhật đã hình thành trục Phát-xít, mưu toan chia cắt thế giới.

Quân Nhật đã xây dựng chiến lược Bắc tiến, Tây tiến và Nam tiến, mục đích Nam tiến là chiếm đóng Đông Nam Á và khu vực tây-nam Thái Bình Dương. Nhật Bản xâm lược Đông Nam Á có sự cân nhắc lâu dài.

"Xét từ góc độ bố cục thế giới mà nói, chúng muốn chiếm đóng Đông Nam Á và thành lập cái gọi là "Vành đai thịnh vượng chung Đại Đông Á". Về hướng Đông có thể đối trọng với Mỹ tại khu vực Thái Bình Dương, hướng Tây có thể tiếp tục tấn công và chiếm đóng Ấn Độ, sau đó sẽ hội tụ với Phát-xít Đức và Ý tại khu vực Trung Đông, buộc nước Anh phải khuất phục, sau đó dốc toàn lực đối phó với Mỹ, đây là một chiến lược lâu dài của Nhật Bản".

Quân Nhật xâm lược Đông Nam Á là hòng cướp bóc tài nguyên chiến lược của địa phương. Đông Nam Á có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào như dầu mỏ, cao su, lương thực, khoáng sản..hơn thế nữa khu vực này lúc bấy giờ có nguồn nhân lực với 150 triệu người. Quân Nhật xâm lược Đông Nam Á là hòng làm bá chủ mới của khu vực này.

Các nước Đông Nam Á lúc đó lần lượt là thuộc địa của Pháp, Anh, Hà Lan và Mỹ. Nghiên cứu viên Ban Nghiên cứu quân sự thế giới của Viện Khoa học quân sự Trung Quốc Hạ Tân Thành cho rằng, Nhật Bản phát động cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, chiếm đóng khu vực Đông Nam Á là nhằm thiết lập một trận tự mới với trung tâm là Nhật Bản.

Đi sâu phân tích có thể nhận thấy, chủ nghĩa quân phiệt Nhật và chủ nghĩa Phát-xít là cội nguồn tội ác phát động chiến tranh xâm lược của Nhật Bản trong thời cận đại.

"Nguồn tài nguyên trên đảo Nhật Bản rất có hạn. Đối với Nhật Bản mà nói, muốn phát triển, muốn sinh tồn thì cần phải đi con đường bành trướng và chinh phục bên ngoài. Dưới sự thôi thúc của tâm trạng manh động này, Nhật Bản đã từng bước lên con đường phát triển chèn ép nước khác lấy cướp bóc để phát triển, lấy chiến tranh để mở rộng không gian sinh tồn của mình, như vậy đã khiến chúng đi lên con đường diệt vong không có ngày trở về, trở thành chủ nghĩa Phát-xít còn tàn nhẫn hơn ách thống trị thực dân của phương Tây, mất hết tính người và cuối cùng trở thành thế lực cực đoan chống lại loài người"

Sau Thế chiến thứ 2, Nhật Bản đã rút khỏi toàn bộ những lãnh thổ bị chúng xâm lược và xây dựng Hiến pháp Hoà bình.

Điều 9 của Hiến pháp Hoà bình Nhật Bản quy định: "Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ quyền quốc gia phát động chiến tranh cũng như đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp quốc tế, không có lực lượng Lục-Hải-Không quân cũng như các lực lượng chiến tranh khác, không công nhận quyền giao chiến của quốc gia".
Hiện nay, thế lực cánh hữu Nhật Bản đang thúc đẩy sửa đổi Hiến pháp Hoà bình phòng ngừa sự hồi sinh của chủ nghĩa quân Phiệt, đã dẫn đến sự quan ngại và cảnh giác của người dân Nhật Bản và các nước xung quanh

 

CHÍNH SÁCH CỦA ANH

Trong quá trình tìm kiếm thị trường thuộc địa, thực dân Anh đã tìm thấy ở Miến Điện những thứ mà người Anh đang cần

Từ cuối thế kỷ 18, hoạt động giao thương buôn bán cùng với các đợt truyền đạo tại Miến Điện đã được thực dân Anh tiến hành.

Đứng trước nguy cơ bị Pháp thôn tính mảnh đất mầu mỡ này khi Pháp giúp đỡ người Mon đánh chiếm kinh đô của người Miến, thực dân Anh càng quyết tâm thực hiện dã tâm của mình.

Chế độ cai trị của thực dân Anh Sau khi giành quyền cai trị toàn cõi Miến Điện, thực dân Anh không chỉ thi hành chính sách hà khắc, vơ vét tài nguyên thiên nhiên của Miến Điện đem về mẫu quốc mà còn thực thi chính sách chia rẽ sắc tộc, để lại nhiều hậu quả lâu dài đối với Miến Điện.

Các quốc gia Karen ở miền Tây Miến Điện được thực dân Anh cho hưởng quyền độc lập theo Hiệp ước 1875 dưới sự bảo hộ của Anh. Thủ lĩnh các quốc gia Shan ở miền Bắc được toàn quyền Anh tấn phong tước hiệu và ban cho nhiều đặc quyền riêng dưới sự giám sát của người Anh. Ở khu vực người Kachin, các thủ lĩnh địa phương được giao nhiều quyền lực hơn so với quốc gia Shan. Ở các vùng dân tộc thiểu số thưa dân gúp Trung Quốc như tộc người Wa, Naga, Chin.. bị thực dân Anh cai trị gián tiếp bằng chế độ quan lại đại phương.

Thực dân Anh đặc biệt nâng đỡ người Karen, kích động mâu thuẩn giũa người Karen với người Miến.

Tỷ lệ người Karen được học hành, tuyển dụng làm việc trong cơ quan hành chính, bệnh viện,.. cao hơn hơn hẳn người Miến.

Người Miến không được thamgia quân đội hoàng gia. Chính sách “chia để trị” của thực dân Anh nhìn bề ngoài là nhằm bảo vệ các dân tộc nghèo, kém phát triển, nhưng thực chất là nhấn mạnh sự khác biệt, duy trì và kéo dài sự trì trệ ở các vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là nằm ngăn cản quá trình hòa trộn tự nhiên về văn hóa giữa các sắc tộc. Hơn nữa, bộ máy tuyên truyền của thực dân Anh không ngừng thổi phồng, xuyên tạc “tội ác” của các triều đại phong kiến Miến Điện trước kia, vẽ ra hình ảnh sai lệch, xấu xa về người Miến trong con mắt của các sắc tộc khác. Về quản lý hành chính, Miến Điện bị xếp thành một bang của Ấn Độ, vì vậy tất cả các vị trí trọng yếu trong ơ quan dân sự ở Miến Điện đều là người Ấn Độ và người châu Âu do thực dân Anh cử đến nắm giữ.

Về kinh tế, người Anh và người châu Âu được quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên của Miến Điện được tự do chuyển lợi nhuận về nước. Các loại tài nguyên thiên nhiên quý giá của Miến Điện bị thực dân Anh khai thác triệt để.

 

TỚI TÊN GỌI: MYANMAR HAY BRUMA

Vậy cái tên nào nên được sử dụng? Trong nhiều năm, điều đó phụ thuộc vào quan điểm chính trị của người nói (hoặc người viết).Bà Suu Kyi và những người đồng tình với cuộc đấu tranh của bà hiển nhiên từ chối việc gọi đất nước này là “Myanmar”, bởi vì làm như vậy sẽ là thừa nhận tính hợp pháp trong lựa chọn tên gọi của chính quyền quân sự , nghĩa là thừa nhận bản thân chính quyền đó. Vì vậy, các quốc gia đồng tình với cuộc đấu tranh của bà, chủ yếu là ở châu Âu và châu Mỹ, cũng làm điều tương tự.

Nhưng kể từ khi nhậm chức với vai trò là Hạ Nghị sĩ vào bốn năm trước – và chắc chắn kể từ khi nắm quyền lãnh đạo đất nước vào tháng 3/2016 – những phản đối của bà đối với cái tên mới đã dịu lại. Trong bài phát biểu đầu tiên tại Liên Hiệp Quốc với cương vị là nhà lãnh đạo đất nước mình, bà chủ yếu dùng tên gọi “Myanmar”.

Cuộc chiến về tên gọi bắt nguồn từ những ngày khi các từ Myanmar/Burma mang nhiều ý nghĩa về chính trị hơn là tên gọi một quốc gia – khi lựa chọn cách gọi “Burma” đồng nghĩa với tuyên bố đứng về bên chính nghĩa trong một cuộc đấu tranh vì tự do và công lý.

Những ngày ấy đã qua. Vấn đề của đất nước này hiện nay phức tạp hơn nhiều: không phải là làm thế nào để thuyết phục một chế độ độc tài thừa nhận ý nguyện của người dân, mà là làm thế nào để đưa hàng chục triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo cùng cực càng nhanh càng tốt, và làm thế nào để dập tắt những cuộc nội chiến kéo dài nhiều thập kỷ và thiết lập một nhà nước hiệu quả, công bằng với quyền lực mở rộng trên toàn bộ lãnh thổ. Những vấn đề đó không hề trở nên kém phần gai góc dù bạn có sử dụng bất cứ tên gọi nào để chỉ đất nước này.

 

QUỐC KỲ MYANMAR (CŨ)

Quốc kỳ Myanmar cũ được sử dụng từ 3 tháng 1 năm 1974 đến 21 tháng 10 năm 2010 có hình chữ nhật  nền đỏ có một hình chữ nhật khác màu xanh ở góc bên trái trên cùng. Ở giữa hình chữ nhật màu xanh, có một bánh răng màu trắng (tượng trưng cho giai cấp công nhân), lồng vào bánh răng là một giạ lúa cũng màu trắng (tượng trưng cho giai cấp nông dân). Bao quanh bánh răng và giạ lúa là 14 ngôi sao tượng trưng cho 14 đơn vị hành chính của Myanma. Về màu sắc, màu đỏ tượng trưng cho lòng can đảm, màu xanh tượng trưng cho hòa bình và thống nhất còn màu trắng tượng trưng cho sự trong sạch.

So với lá cờ trước (từ 1948 đến 1974), lá cờ này có cùng kích thước, tỷ lệ và cách bố trí màu. Chúng chỉ khác nhau ở hình trong hình chữ nhật màu xanh: đó là sáu ngôi sao gồm một ngôi sao ở giữa và năm ngôi sao bên cạnh.

Tuy nhiên, chúng đều là hình chữ nhật  nền đỏ có một hình chữ nhật màu xanh ở góc bên trái trên cùng.

 

QUỐC KỲ MỚI

Năm 2008, người ta đã đề nghị thay thế lá cờ hiện nay băng một lá cờ khác gồm 3 dải màu đỏ, vàng và xanh có cùng chiều rộng lần lượt từ dưới lên trên. Dải trên cùng màu xanh có một ngôi sao màu trắng ở góc bên trái

Tuy nhiên, đề nghị này bị bác bỏ. Và lá cờ được chấp nhận là lá cờ hiện nay.

Trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Myanma, lá cờ ba màu như hiện nay nhưng không có ngôi sao (khi đó chỉ có hình tròn trắng với hình con công) đã là quốc kỳ của nhà nước Myanmar được Nhật hậu thuẫn.

Quốc kỳ Myanmar được sử dụng từ ngày từ 21 tháng 10 năm 2010. Lá cờ này có ba sọc ngang từ trên xuống gồm:

- Màu vàng tượng trưng cho tình đoàn kết của giai cấp công nhân Myanmar

- Màu xanh lá cây là sự hòa bình và yên bình của đất nước

- Màu đỏ tượng trưng và dũng cảm và quyết đoán của người dân Myanmar

- Ngôi sao 5 cánh màu trắng tượng trưng cho sự hòa hợp chủng tộc và sự kết hợp của năm nhóm dân tộc chính - Burman, Karen, Shan, Kachin, và Chin.

Lá cờ này đã được thay thế cho lá cờ cũ từ ngày 21 tháng 10 năm 2010.

 

THÀNH PHỐ YANGON – MYANMAR

YANGON

Yangon hàng ngàn năm tuổi, có diện tích chưa bằng 1% Myanmar (576 km2, bằng ¼ Sài Gòn) nhưng chiếm tới 11% dân số (5 triệu người). Từ trên máy bay, Yangon trong nắng chiều, bình dị và ấn tượng. Những tháp vàng óng ánh đan xen với các khu dân cư, quấn quít cây xanh ẩn hiện. Cơ man nào là tháp, gắn liền với chùa, sắc vàng nhuộm cả trời đất. Phải gọi Myanmar là xứ sở Chùa Tháp mới đúng.

 

Yangon là thủ đô của Miến điện, cũng được gọi là Rangoon có nghĩa là ‘chấm dứt sự xung đột’ do Vua Alaungpaya đặt tên sau khi tiến vào miền Nam Myanmar vào giữa năm 1750. Bắt đầu từ năm 1989, chính phủ Miến điện đổi lại là Yangon cho phù hợp trong việc phát âm của ngôn ngữ Miến.

 

Kinh đô của Miến Điện là Yangoon hay Rangon. Tiếng Hoa gọi là Ngưỡng Quang. Đây là cách đọc và dịch theo âm của người Hoa. Ví dụ như Bangkok viết là Vọng Các. Vientane viết là Vạn Tượng. Thật sự ra cách phiên âm như thế cốt cho dễ đọc, chứ không có một ý nghĩa gì cả. Nếu có, chẳng qua là sự trùng hợp mà thôi. Cũng như người Lào tin rằng chữ Vientane dịch ra Vạn Tượng là đúng. Vì đây ám chỉ cho một xứ sở có đến hơn 10,000 con voi.

Năm 2006, thủ đô của Myanmar chính thức được chuyển từ  Yangon về Naypyidaw. Tuy nhiên cho đến nay, khi nhắc đến Myanmar, mọi người vẫn thường chỉ nhắc đến Yangon,cố đô nằm ở ngã ba sông Yangon và Bago.

 

Yangon hay Ngưỡng Quang ( trước đây gọi là Rangoon là thành phố lớn nhất Myanmar  (trước đây là Miến Điện)) với dân số 4.082.000 (2005). Thành phố nằm ở ngã ba sông Yangon và sông Bago, cách Vịnh Martaban 30 km. Tọa độ của Yangon là 16°48′ vĩ bắc, 96°09′ độ kinh đông (16.8, 96.15), theo múi giờ UTC/GMT +6:30 h.

 Tháng 11 năm 2005, Hội đồng hành chính quân sự Myanma đã quyết định dời đô từ Yangon về Naypyidaw thuộc tỉnh Mandalay. Naypyidaw chính thức trở thành thủ đô mới của Myanma từ ngày 26 tháng 3 năm 2006.

 So với các thành phố lớn ở Đông Nam Á, Yangon tương đối kém phát triển. Việc bùng nổ xây dựng phần lớn là do đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc và Singapore. Nhiều cao ốc thương mại và nhà ở đã được xây dựng ở trung tâm thành phố. Yangon có nhiều tòa nhà thời thuộc địa nhất Đông Á hiện nay

Các văn phòng chính phủ ở trong các tòa nhà được xây thời thuộc địa (ví dụ: Tòa án Tối cao Myanma, Tòa thị chính, Chợ Bogyoke và Bệnh việc đa khoa đang được đưa vào kế hoạch gia cố nâng cấp. New Towns và các khu ngoại ô khác như thị trấn Thaketa vẫn tiếp tục nghèo khổ.

 ĐỀN Shwedagon:

Thành phố Yangon – Myanmar hiện nay vẫn còn giữ được nét hấp dẫn của nó, với những con đường rộng, và những hàng cây xanh mượt dọc theo các con đường, mặt hồ thì yên tĩnh. Một điểm thu hút nhất nơi đây chính là kiểu kiến trúc độc đáo của nó. Ngồi đền Shwedagon, được xem như một trong những kỳ quan cổ đại của thế giới. Ngồi đền có chiều cao 98 mét, và nó thực sự là ngọn đèn vàng nằm giữa thành phố. Chính vì thế quý khách có thể nhìn thấy ngồi đền ở bất kỳ nơi nào trong thành phố. Cây xanh cũng là một phần quan trọng tô điểm cho nơi đây.

 Theo truyền thuyết, ngồi đền được xây dựng cách đây 2.500 năm, và được cất giữ các di tích tóc của Đức Phật. Trong nhiều thế kỷ qua, người dân nơi đây đã quyên góp tài sản của họ như là một phần tích luỹ công đức để xây dựng ngôi đền. Họ đã quyên góp vàng và các đồ trang sức cho ngôi đền, tính đến bây giờ, đã có hơn 80.000 đồ trang sức trong ngôi đền, đặc biệt là quả cầu kim cương stud được đặt trên đỉnh của ngôi đền. Xung quanh khu vực ngôi đền là các đền thờ cao chót vót và 1 số cửa hàng nhỏ, nơi phục vụ cho khách hành hương ghé thăm nơi đây. Đây cũng là nơi tập trung chính của cả đất nước để tỏ lòng tôn kính với Đức Phật. Ở đây, quý khách có thể tận mắt chứng kiến các nghi thức của trung tâm Phật giáo myanmar khi họ cầu nguyện và dâng lễ vật.

 Yangon còn có chùa Laba Moni với tượng Phật bằng cẩm thạch màu xanh tro nguyên khối, cao gần 20m và nặng hơn 900 tấn. Cung điện nổi Krawei lộng lẫy trên hồ Kundawgyi. Chợ Bogyoke bán rất nhiều đá quý, từ cẩm thạch, ruby, sapphire đến hồng ngọc, đồ trang sức, đồ thủ công, hàng lưu niệm bằng gỗ thơm… Nếu biết cách mua, các loại tranh đá quý, vòng tay cẩm thạch, dây chuyền… giá rất rẻ. Cứ trả giá thoải mái và có thể mua bằng USD.

 

Đi dạo một vòng quanh Yangon, sẽ khiến ban có cảm giác như lạc vào một thế giới khác, thế giới của nhưng ngồi làng “ngủ”. Thị trấn Thanlyin và Kyauktan, điển hình là những tu viện cũ và những ngồi chùa ẩn trong các khu rừng nhỏ. Các lễ hội ở chùa Kyaik Khauk thuộc thị trân Kyauktan là một trong những hội chợ lớn nhất trong khu vực. Gần đó là ngôi làngTwante, nổi tiếng với các kỹ thuật làm gốm truyền thống vẫn được lưu giữ.

 Văn hóa

Ngôn ngữ chính thức là tiếng Myanmar.  Tiếng Anh cũng được những người lớn tuổi hoặc có học sử dụng rộng rãi ở nội ô. Yangon có trường đại học lâu đời nhất Myanmar (thành lập năm 1920). Hai trong bốn học viên y khoa đặt ở thành phố này.

 Kinh tế

Yangon là trung tâm kinh tế của Myanma. Phần lớn xuất nhập khẩu đến từ Yangon. Năm 2004, chính phủ đã cho phép Công ty phát triển khu chế xuất Shanghai Jingqiao triển khai kế hoạch lập Đặc khu kinh tế lớn nhất Myama ở Thanlying Township gần cảng Thilawa. Quy hoạch đã được hoàn thành năm 2006 nhưng vẫn chưa được phê duyệt..

 

VÀNG MYANMAR

Myanmar, vàng đã được tìm thấy rất nhiều từ thời xa xưa.

Hàng ngàn năm về trước, đất nước Myanmar có tên gọi là Thuwunna Bhumi (có nghĩa là Vùng đất vàng). Các vị vua chúa người Mon, Bamar, Rakhine trị vì trên các vùng lãnh thổ mà ngày nay là đất nước Myanmar thường dùng vàng để đúc ngai, xe ngựa, vương miện, giỏ xách và làm phần thưởng cho khách quý cũng như các bậc khanh tướng có công.

Ngày nay, du khách vừa bước xuống sân bay quốc tế Yangon sẽ bắt gặp ngay dòng chữ: Chào mừng bạn đến Myanmar, vùng đất vàng. Hiện Myanmar có rất nhiều mỏ đá quý, ngọc bích và vàng. Trong đó, khu vực quận Kawlin ở phân khu Sagaing được đánh giá là nơi có trữ lượng vàng rất lớn, ước tính lên tới 6,04 triệu tấn quặng.

Hành trình của vàng bắt đầu từ nơi rừng thiêng nước độc. Hàng ngàn, hàng vạn công nhân nghèo khổ suốt ngày ngâm mình trong nước hoặc làm việc dưới những hầm sâu để đãi ra những hạt vàng nhỏ li ti từ trăm ngàn khối nước, đất đá. Cũng đôi lúc họ tìm được một mẩu vàng lớn, nhưng nói chung rất hiếm. Những hạt vàng nhỏ xíu sau đó được tinh luyện thành vàng nguyên chất và đưa về các xưởng chế tác vàng lá khắp nơi ở Myanmar, đặc biệt là tại khu Maha Aung Myay ở cố đô Mandalay. Đây được coi là kinh đô của nghề chế tác vàng lá của đất nước.

Nghề làm vàng lá đã có từ thời xa xưa ở Myanmar nhưng các công đoạn chế tác thủ công hầu như vẫn được lưu giữ cho đến tận hôm nay. Để làm vàng lá, đầu tiên người ta nấu chảy vàng nguyên chất và đổ thành những tấm nhỏ, mỗi tấm nặng chừng 12g. Tiếp theo, mỗi tấm vàng nhỏ sẽ được chia thành 200 mảnh, tức mỗi mảnh chỉ khoảng 0,06g. Sau đó người ta kẹp các mẩu vàng tí hon này vào giữa hai lớp giấy trúc, bên ngoài kẹp tiếp hai miếng da hươu và các chàng trai trẻ sẽ dùng búa nện lên cho miếng vàng bên trong mỏng ra. Sau hàng giờ giã và nghiền, người ta sẽ có được những lá vàng mỏng và nhẹ hơn cả giấy. Những lá vàng này sẽ được bán cho khách để đắp lên tượng Phật, lên tháp chùa hoặc bất cứ nơi đâu mà họ muốn.

Vàng là thứ kim loại vô cùng quý giá, một báu vật mà tạo hóa đã ban tặng con người. Chính vì những phẩm chất đặc biệt này, trong lịch sử đã có không biết bao nhiêu cuộc chiến tranh, xung đột đẫm máu để tranh giành các mỏ vàng hoặc những báu vật làm từ vàng. Thế nhưng, có một nơi mà vàng hiện diện ngay trước mặt bạn. Bạn có thể sờ vào một khối vàng hàng chục tấn mà lòng vẫn nhẹ tênh, không hề gợn chút lòng tham. Đó chính là Myanmar, đất nước của những ngôi chùa vàng rực rỡ.

  

• MANDALAY

Mandalay là thành phố lớn thứ hai tại Myanmar và từng là kinh đô của Hoàng triều Myanmar. Cho đến ngày nay, cố đô Mandalay vừa là trung tâm kinh tế của vùng thượng Myanmar, vừa là vùng đất của nền văn hóa Myanmar cổ đại.

Mandalay - theo tiếng Phạn là “thành phố của những viên ngọc”, được thành lập vào năm 1857. Hai năm sau, Hoàng đế Mindon (1808-1878) vốn là vị vua rất sùng đạo, đã dời đô từ Amarapura về Mandalay và quyết tâm biến nơi này thành “kinh đô Phật giáo” của Myanmar. Dù chỉ là thủ đô trong 26 năm (1861-1885) nhưng Mandalay đã để lại nhiều dấu ấn văn hóa đặc sắc

BAGAN

• BAGAN

Bagan là một thành phố cổ, nay là một khu vực khảo cổ thuộc vùng Mandalay, Myanma

Bagan có tên cũ là Pagan, từng là kinh đô của vương quốc Pagan tồn tại từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13 ở miền trung Myanma ngày nay

Thành phố Bagan hiện nay nằm ở vùng đất khô, trung tâm Myanma, nằm ở bờ phía đông sông Ayeyarwady, cách Mandalay 145 km về phía Tây Nam, thuộc Vùng Mandalay. Nó có diện tích khoảng 25 dặm vuông với hàng trăm đền chùa, tự viện. Những đền chùa này được xây dựng trong khoảng từ giữa thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 13, trong thời kỳ chuyển tiếp từ Phật giáo Đại thừa sang Phật giáo Theravada. Những đền chùa được xây dựng trong thời đại hoàng kim này đánh dấu sự khởi đầu của những truyền thống Phật giáo mới ở Myanma.
Nằm bên bờ sông Irrawaddy miền Trung Myanmar, Bagan từng là kinh đô hưng thịnh của vương quốc Pagan trong thế kỷ 9-13.

• BAGO

CHIM HINTHA(NGỖNG HAMSA)
  BIỂU TƯỢNG BAGO

Thành phố Bago được thành lập từ năm 573 sau công nguyên bởi 2 hoàng tử người Môn tại đất nước Thaton.
Hai vị hoàng tử nhìn thấy 2 con chim hamsa một trống một mái đứng giữa hồ nước lớn.
Xem đây là điềm lành, họ đã lập ra một thành phố hoàng gia cạnh bờ hồ, tên là Hanthawady
Thành phố Bago có chùa Hintha Gon Pagoda cũng lấy từ biểu tượng loài chim này
Con Hintha đẹp đẽ còn là biểu tượng tôn quý của người Mon
Đây là biểu tượng bất tử của chùa tháp - Hintha Gon Paya
Một trong những vị vua vĩ đại cai trị Bago là Dhammazedi, nắm quyền từ 1471 đến 1492

Trong 21 năm, ông không chỉ xây dựng nhiều chùa tháp ở Bago mà còn cho mạ vàng lại chùa Shwedagon của Yangon (sau đó nó được gọi là Dagon) 4 lần..

* THỦ ĐÔ CỦA MYANMAR – MIANMA QUA CÁC THỜI KỲ

1.Bagan là thành phố cổ của Mandalay, hiện trở thành khu vực khảo cổ, nổi tiếng với hàng nghìn ngôi chùa, đền thờ được xây dựng trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 13, trong thời kỳ chuyển tiếp từ Phật giáo Đại thừa sang Phật giáo Theravada. Ngày nay, rất nhiều ngôi làng ở Bagan còn giữ nghề thủ công truyền thống làm bằng tay như nghề đan rổ, làm đồ gốm. Bạn có thể tham quan một số điểm của Bagan như: chùa Ananda, Htilominto, Lawkananda, làng Zee o, Nga Tha York…

2. Mandalay là thủ đô cuối cùng của triều đại cuối cùng, nằm cách thủ đô Yangon hơn 700km về phía Bắc, là thành phố đông dân thứ hai của Myanmar. Được xem như trái tim của Myanmar, Mandalay có nhiều công trình kiến trúc truyền thống, điêu khắc gỗ, điêu khắc đá, đồng và nghệ thuật độc đáo. Một số điểm tham quan của Mandalay: cung điện Mandalay, chùa Maha Myat Muni, chùa Kuthodaw, đồi Mandalay…

3. Cố đô Yangon là thành phố thương mại có diện tích lớn nhất của Myanmar và được coi là cửa ngõ đón du khách quốc tế bằng đường không và đường biển. Một số điểm tham quan của Yangon: chùa Shwedagon, chùa Sule, chợ Bogyok, hồ Inya, vườn thú Yangon, bảo tàng quốc gia, công viên quốc gia Hlawga…

4.Nay Pyi Taw

Sau 4 năm xây dựng, Nay Pyi Taw là thủ đô hành chính và chính trị chính thức của Myanmar từ năm 2006. Mặc dù hầu hết các hoạt động thương mại vẫn diễn ra ở Yangon nhưng Nay Pyi Taw đóng vai trò là trung tâm của Myanmar. Với các công trình hiện đại, trang thiết bị đầy đủ, Nay Pyi Taw trở thành trung tâm tổ chức hội nghị của cả nước

* Căn cứ vào sử sách Mianma, Thủ đô của Mianma được di chuyển rất nhiều nơi. Đó cũng là lý do khiến Mianma là một trong số ít nước trên thế giới có nhiều “cô đô” nhất.

Tuy nhiên có ba thành phố chính được coi là Thủ đô của Mianma qua các thời đó là:

1.Cố đô Bagan

Bagan, hay còn gọi là Pagan, nằm trên bờ đông sông Ayeyarwady, cách Mandalay190 km về phía nam. Vào thế kỷ XI, khu vực này biết đến với cái tên Pukam.
Đến thế kỷ XIV, mọi người biết đến khu vực này với tên Bagan. Cách gọi này có thể là một dạng phiêm âm từ Pukam hay Pyugan.

Theo các di chi khai quật được ở đây, ngay từ những năm 800 sau công nguyên, khu vực này đã là một thành phố thịnh vượng. Năm 870 sau Công nguyên, vua Pyunbya chuyển Thủ đô từ Tampawaddy (ngày nay là Pwasato) đến Bagan và trowrthanhf người sáng lập nên thành phố Bagan ngày nay.

Những năm tiếp theo, Vua Thaiktaing tiếp tục củng cố và xây dựng Thủ đô Bagan. Tuy nhiên, sau đó ít lâu, do có sự tranh giành quyền lực, ở khu này tồ tại hai Thủ đô. Một là Thiripyusaya do vị vua thứ bảy – Thelegyaung cai trị. Thủ đô thứ hai có tên là Paukkan do Vua Thamudrit xây dựng vào năm 108 sau Công nguyên.

Bagan chỉ thực sự trở thành Thủ đô của các triều đại phong kieenss Miến Điện với hàng nghìn chùa thấp tráng lệ từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII. Năm 1044, Vua Annwrahta, người Miến – vị vua tài ba của Miến Điện – là tín đồ trung thành của đạo Phật. Ông quyết tâm xây dựng Bagan trở thành “thủ phủ” của các chùa chiền. Sau khi bị vua của người Mon lúc bấy giờ là Manuha Tharton khước từ trao Tripitaka (kinh Theravada), ông đã đưa quân tiến xuống phía nam chinh phục Tharton vào năm 1057

Ông đã đưa chữ viết, kinh Theravada về Bagan và bắt đầu cho xây dựng hàng trăm đền chùa, dinh thự, nhà của theo kiến trúc đạo Phật, trong đó phải kể đến chùa Shwezigon – kiểu kiến trúc chùa tiêu biểu của Miến Điện sau này, tiếp đó là Pitaka Taik – thư viện lưu trữ kinh thư và chùa Shwesandaw với kiến trúc độc đáo, trang nhã. Bagan trở thành Thủ đô của chùa tháp đồng thời là điểm đến cảu các Phật tử ở khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ.

Các vua kế vị như Kyanzitha, Alaungsithu và Napatisithu không thể kế tục được sự nghiệp này, cho dù Bagan vẫn đang ở thời kỳ phát triển đỉnh cao. Đến cuối thế kỷ XIII, đế chế phong kiến Miến Điện lần thứ nhất bị diệt vong trước sự xâm lược của quân Mông Cổ (năm 1287). Lợi dụng cơ hội đó, người Shan từ cao nguyên tiến xuống khu vực này để mở rộng lãnh thổ. Trong khi đó người Mon ở phía namcungx đã phá vỡ sự cai trị của đế chế Miến Điện và thành lập vương quốc của họ.

Ngày nay, Bagan là một thành phố du lịch tâm linh nổi tiếng của Mianma với hơn 4000 chùa tháp, tu viện đã được trùng tu, bảo tồn.

2.Cố đôYangon

Yangon thuộc Hạ Miến Điện, tiếp giáp với vùng Bago về phía đông bắc, cách vịnh Mottama khoảng 19 dặm (30km) về phía nam và tiếp giáp với đồng bằng Ayeyarwady về phía tây.

Vào thế kỷ VI sau Công nguyên, người Mon thống trị cả vùng Hạ Miến Điện, đặt tên cho vùng đất này là Dagon. Lúc bấy giờ, Dagon chỉ là một làng cá nhỏ có chùa Shwe Dagon ở trung tâm. Năm 1755, Vua Alaungpaya đánh chiếm Dagon và đổi tên thànhYangonvới hy vọng mảnh đát này sẽ lf nơi chấm dứt chiến tranh. Ông đã cho xây dựng nhiều nhà cửa, đền, chùa ở đây.

Từ năm 1842-1826, thực dân Anh tiến hành cuộc chiến tranh Anh – Miến lần thứ nhất, chiếm lĩnhYangon. Sau cuộc chiến,Yangonđược trao trả lại cho vương triều Miến Điện báy giờ. Năm 1841,Yangonbị phá hủy bởi một trận cháy lớn.

Vào năm 1852, sau cuộc chiến tranh Anh – Miến lần thứ hai, thực dân Anh mới chính thức cai quản Yangon và toàn bộ khu vực hạ Miến Điện, biến Yangon trở thành một trung tâm thương mại và chính trị của Toàn quyền Anh tại khu vực Hạ Miến Điện. Người Anh đã tái cấu trucslaijYangontheo kiểu kiến trúc Anh. Yangon được mở rộng ra phía đông tới thung lũng Pazungdauung, phía nam và tây đến sôngYangon.

Năm 1885, sau khi thực dân Anh chiếm toàn bộ vùng Thượng Miến Điện trong cuộc chiến tranh Anh – Miến lần thứ ba, Yangon chính thức thành thủ đô nước Anh trên toàn Miến Điện với cái tênlà Rangoon. Đến những năm 1890, các cơ sở hạ tầng như bệnh viện, trường học, nhà ga, khu vui chơi giải trí cùng các tòa nhà cao tầng hiện đại cũng được xây dựng.

Những năm đầu của thế kỷ XX, thành phố địa Yangon với các công viên cây xanh rộng lớn cùng các tòa nhà hiện đại, kết hợp với kiến thúc gôc truyền thống được thế giới biết đến là “thành phố cây xanh” của phương Đông và được xếp ngang hàng với Luân Đôn.

Sau khi giành được độc lập, Yangontieps tục được xây dựng và mở rộng. Trong thập niên 1950, nhiều thành phố vệ tinh quanh Yangon được xây dựng như: Thaketa, Bắc Okkalapa, NamOkkalapa. Trong thập niên 1980, các thành phố vệ tinh khác như: Hlaingthaya, Shwepyitha và Nam Dagon được hình thành. Năm 1989, Yangonlà tên chính thức của thủ đô Mianma. Ngày nay, Yango, bao gồm các thành phố vệ tinh, có tổng diện tích 6.283 km21

3.Thủ đô Nay Pyi Taw

Trong tiếng Miến Điện, Nay Pyi Taw nghĩa là “ Thủ đô hoàng gia”, “Ngai vua”, có diện tích 7.055km2, cách thị trấn Pyinmana 3,2 km về phía tây và cách Yangon khoảng 400km về phía bắc. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nay Pyi Taw là căn cứ chống phát xít Nhật của các lực lượng kháng chiến Miến Điện.

Nay Pyi Taw chính thức trở thành Thủ đô hành chính của Mianma từ ngày 6-11-2005. Tên  chính thức của Thủ đô được công bố vào ngày 27-3-2003, nhân ngày Quân đội Mianma Thủ đô Nay Pyi Taw hiện vẫn đang trong quá trình xây dựng, dự kiến sẽ hoàn tất năm 2012. Tính đến năm 2009, số dân tại Thủ đô Nay Pyi Taw khoảng 925.000 người và Nay Pyi Taw trở thành thành phố lớn thứ ba xét về dân số ở Mianma, chỉ sau Yangon và Mandalay.

Nay Pyi Taw là một trong những Thủ đô trẻ nhất thế giới và được xây dựng vào thời gian kỷ lục: bốn năm. Quá trình xây dựng bắt đầu từ năm 2002 với khoảng 25 công ty xây dựng tham gia. Ngày 11-11-2005, lúc 11 giờ 00, 1.100 xe tải quân đội chở 11 tiểu đoàn và 11 bộ chính quyền liên bang rời Yangon về Thủ đô mới. Các bộ, ngành trung ương còn lại đều hoàn tất di chuyển về Nay Pyi Taw trước cuối tháng 12-2009.

Có nhiều ý kiến khác nhau về lý do tại sao các chính quyền Mianma quyết định đơi Thủ đô từYangonvề Nay Pyi Taw. Theo giải thích chính thức của Chính phủ Mianma, việc dời Thủ đô lên Nay Pyi Taw là doYangonquá chật chội, không còn không gian để mở rộng Thủ đô hiện tại. Cùng quan điểm đó, nhiều ý kiến cho rằng, Nay Pyi Taw nằm ở vị trí có tầm quan trọng chiến lược hơn hẳn Yangon, là trung tâm giao thông chiến lược của toàn liên bang, từ đó có thể tiếp cận dễ dàng hơn với các bang, vùng chiến lược ở phía bắc, phía tây và phía đông.

Thủ đô Nay Pyi Taw được quy hoạch thành nhiều khu, bao gồm khu dinh thự làm việc của Quốc hội, Cính phủ; khu trụ sở các bộ, ngành trung ương; khu vực đoàn ngoại giao; khu quân đội; khu dân cư; khu khách sạn; biệt thự cao cấp; khu mua sắm, khu giải trí, khu bảo tàng và khu triễn lãm đá quý, sân golf, chùa chiền.
Naypyidaw có vị trí trung tâm và chiến lược hơn so với thủ đô cũ là Yangon.
Đây cũng là một trung tâm giao thông nằm tiếp giáp với các bang Shan, Kayah và Kayin.
Cũng có nhận định rằng một sự hiện diện mạnh mẽ hơn của quân đội và chính phủ ở gần đó có thể giúp ổn định các khu vực đã hỗn loạn trong nhiều năm.
Những lời giải thích chính thức cho việc dời đô là vì Yangon đã trở nên quá chật hẹp và đông đúc nên sẽ hạn chế việc mở rộng trong tương lai của các văn phòng chính phủ

Một số nhà ngoại giao Phương Tây suy đoán rằng chính phủ Myanma có lẽ lo ngại về khả năng bị nước ngoài tấn công, còn Yangon thì nằm sát bờ biển và do đó sẽ dễ dàng bị xâm phạm bởi một cuộc xâm lược đổ bộ
Nhiều người dân Myanma cho rằng cảnh báo về việc nước ngoài tấn công đã được một nhà chiêm tinh báo cho giới chức quân sự cầm quyềnNhà báo Ấn Độ Siddharth Varadarajan, người đến thăm Naypyidaw vào tháng 1 năm 2007, đã mô tả sự rộng lớn của thủ đô mới này là để bảo vệ chống lại "thay đổi chế độ" và "một kiệt tác của quy hoạch đô thị được thiết kế để đánh bại bất kỳ "cách mạng sắc màu" giả định nào– không phải bằng xe tăng và pháo bắn nước, mà bằng hình học và bản đồ"

- Thủ đô Nay Pyi Taw gồm tám hạt (township) là: Zayar Thiri, Pohbla Thiri, Uttara Thiri, Zabu Thiri, Dekhina Thiri, Pyinmana, Lewwe và Tatkone.

Giao thông kết nối giữa Thủ đô Nay Payi Taw với Yangon – trung tâm thương mại vàMandalay– trung tâm văn hóa là đường cao tốc 4-6 làn xe ngần 700 km.

Ngoài ra, còn có các đường bay kết nối Nay Pyi Taw với các địa điểm du lịch khác của Mianma như Bagan, Heho, Sittwe, Myikyina, Kyaing Tong và những nơi khác. Chính phủ Mianma đang khẩn trương mở rộng sân bay Nay Pyi Taw thành sân bay quốc tế, dự kiến hoàn thành vào năm 2012; đồng thời có kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Nay Pyi Taw – Yangon phục vụ nhu cầu giao thông nội địa.

Thủ đô mới của Myanmar theo tên gọi quốc tế là Naypyidaw, còn theo tiếng địa phương là Naypyitaw, chỉ mới được xây dựng sau khi đất nước này chính thức mở cửa với thế giới.

Do đất nước còn chưa phát triển, cơ sở hạ tầng mới chỉ được đầu tư nên bạn khó có thể thấy hình ảnh của một thành phố hiện đại. Nhưng với những gì đất nước này đang nỗ lực gây dựng, có thể chắc chắn một điều, chỉ trong vài năm nữa thôi, khách du lịch sẽ thấy một Myanmar mới, mạnh mẽ hoà nhập với thế giới.

Naypyitaw sẽ là nơi chính thức diễn ra các hoạt động lớn của SEA Games 27(2013)như lễ khai mạc, bế mạc, các cuộc tranh tài thể thao chính của đại hội lớn nhất Đông Nam Á

TÔN GIÁO

Myanmar được tương truyền là vùng đất đầu tiên được diện kiến Đức Phật sau khi Người đắc đạo
- Đến thế kỷ thứ 12 Phật Giáo đã trở thành quốc giáo cho đến thế kỷ thứ 19. Từ khi Phật Giáo được du nhập vào cho đến nay đã gần 2,500 năm lịch sử và chùa chiền, tháp thờ xá lợi, tu viện..đã có đến 13,000 ngôi. Đến năm 1287 khi Mông Cổ xâm chiếm nước này, những ngôi chùa nổi tiếng đã bị đập phá và hiện nay chỉ còn độ 2,000 ngôi chùa danh tiếng và dĩ nhiên những chùa viện khác còn tồn tại cũng không phải là ít.

Myanma còn có trường đại học Phật giáo quốc tế tại Yangoon, dành cho sinh viên từ nhiều nước như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Xri Lanca, Nepan, Thái Lan, Campuchia, Lào,.. đến học miễn phí từ bậc đại học đến tiến sĩ.
Myanmar là quốc gia Phật giáo nguyên thủy có 95% dân số theo đạo Phật, với hàng ngàn chùa chiền dát vàng linh thiêng và cổ kính

(Nhớ, nói, ghi đúng tên các chùa với du khách Việt đã có thể coi là một “kỳ tích”)

Sư sãi ở Myanmar đông hơn cả quân đội, dù Myanmar nằm trong top 10 nước đông quân nhân nhất. Thiền viện Kyat Kha Wine là nơi dạy kỹ năng sống cho trẻ em, là nơi nam thanh niên phải vào tu học trước khi trưởng thành.

Bị cấm vận trong rất nhiều năm nên Yangon còn nghèo so với thủ đô các nước trong khu vực.
Nhưng lạ ở chỗ là người dân luôn bình thản, tự tại với cuộc sống hiện có, không “cắm đầu cắm cổ vào kiếm tiền bằng mọi giá”
Dáng đi nhẫn nhục chịu đựng, da đen nhẻm gầy gò, tóc bay theo gió, bóng đổ dài bên chân những tòa tháp vàng lộng lẫy, nụ cười đôn hậu trên môi, không tranh, không chen, không ồn ào lý sự.
Thả hồn theo những bước chân du khách hành hương, tôi thực sự ngỡ ngàng trước trùng điệp tượng vàng, tượng ngọc và vô số tháp chùa được dát vàng lấp lánh, nhấp nhô. Kyaikhtiyo, Shwedagon hay vô số ngọn chùa vàng khác nữa, dường như được hình thành bởi một thứ ánh sáng kết tinh từ lòng tin thuần khiết của hàng triệu trái tim phật tử đất này, đã làm bừng thức chân lý hướng thiện của bất cứ ai từng đặt chân đến
Ở đó, con người ta như được thức tỉnh, như được cởi bỏ những “tham – sân – si” để ước mơ về một thế giới coi thứ quý nhất không phải là ngọc ngà châu báu, mà là tình yêu, niềm tin, là sự bình an của tâm hồn. Sự huyền diệu ấy ánh lên trong mỗi ánh mắt, nụ cười hồn hậu của những người dân Miến.
Hình như quan niệm “gieo nhân nào gặt quả nấy” như triết lý luân hồi, nhân quả – báo ứng đã ăn sâu vào tiềm thức của họ vậy

* Miến điện là quốc gia được vinh dự tổ chức đại hội kiết tập Kinh điển hai lần liên tiếp: Lần thứ 5 ở Mandalay, và lần thứ 6 tại Yangon.

STUPA VÀ CHÙA HANG

Kiến trúc Phật giáo, stupa và chùa hang

Trong các quốc gia phương Đông, có lẽ không nơi nào lại có nền kiến trúc tôn giáo phong phú, đầy tính huyền bí như Ấn Độ.
Những đền đài Hindu giáo, những chùa chiền Phật giáo, những thánh đường Hồi giáo có ở khắp mọi nơi, đứng xen kẽ với vô số đền đài của các giáo phái khác .
Ngay từ thế kỷ thứ XIII trước CN, kiến trúc tôn giáo ở Ấn Độ đã bắt đầu phát triển. Đạo Phật ra đời vào cuối thế kỷ thứ VI trước CN, với loại công trình vừa là tháp thờ, thánh tích,
vừa là lăng mộ, gọi là stupa (hình 256). Những nơi cúng lễ Phật đồng thời là chỗ ở của các nhà tu hành, gọi là chùa.
Về hình thức stupa, có một truyền thuyết kể rằng khi Phật tổ lâm chung, một môn đệ đến hỏi liệu sau này nên xây ngôi mộ của Người như thế nào. Phật không nói, chỉ lặng lẽ cầm tấm áo cà sa gấp làm tư đặt lên đất, úp cái bát khất thực và đặt cây gậy chống lên trên. Có thể điều đó gợi nên hình ảnh các Stupa sau này chăng?

CHÙA HANG

Đến khoảng thế kỷ thứ VI sau CN, Phật giáo không còn nhận được sự ủng hộ của các vương triều như trước nữa. Các nhà sư phải rút vào ở ẩn trong các khu rừng núi hoang vu. Tuy vậy, giai đoạn này cũng có những kiệt tác được liệt vào loại kỳ quan thế giới. Đó là những ngôi chùa được đục vào hang đá một cách hết sức công phu ở Agianta – một thành phố Trung Ấn (nay thuộc Maharastra gần Bombay) và trong một vùng bán kính rộng tới 300 km bao quanh Naxich. Ở Agianta có tới 30 chùa hang, được
đánh số từ 1 đến 30, hầu hết là sản phẩm của vương triều Phật giáo Gúpta (kéo dài từ đầu thế kỷ thứ III đến giữa thế kỷ thứ VIII). Hai dạng chùa hang chủ yếu là dạng Chaitya – nơi tiến hành các nghi thức tôn giáo và dạng Vihara – tu viện.

NHỮNG NGÔI CHÙA NỔI TIẾNG

• Botaung
• Kyaikhtiyo
(Chùa Đá Vàng)

VĂN HÓA

BIỂU TƯỢNG CỦA CÁC QUỐC GIA

Cùng chúng tôi giải mã những biểu tượng của các quốc gia trên Thế giới, để xem các dân tộc trong dòng chảy lịch sử của mình đã gìn giữ những câu chuyện cốt lõi nào đến tận ngày nay.

Myanmar: Chim công xanh
Sự ảnh hưởng của loài chim công xanh bắt nguồn từ quá khứ xa xưa, nhưng đến ngày nay vẫn còn rất mạnh mẽ và quan trọng trong tôn giáo, văn hóa, lịch sử và chính trị của đất nước Myanmar.

Myanmar hay còn gọi là Burma thuộc khu vực Đông Nam Á, Tây Bắc bán đảo Trung-Ấn. Sự đa dạng chủng tộc dân cư ở Myanmar đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định chính trị, lịch sử và nhân khẩu học của quốc gia này thời hiện đại. Từng là một nước thuộc địa bên trong Đế quốc Anh cho tới tận năm 1948, Myanmar tiếp tục đấu tranh cải thiện những căng thẳng sắc tộc, và vượt qua những cuộc đảo chính. Nền văn hóa nước này bị ảnh hưởng nhiều từ các nước xung quanh, dựa trên một hình thức Phật giáo duy nhất có hòa trộn các yếu tố địa phương.

1. Vua Anawrahta, người đầu tiên thống nhất Myanmar

Người Miến di cư tới thượng lưu châu thổ sông Irrawaddy đầu thế kỷ thứ 9 từ vương quốc Nam Chiếu. Họ đã thành lập vương quốc Pagan, vương quốc này lần đầu tiên đã thống nhất được vùng châu thổ Irrawaddy và bình định được các vùng ngoại biên. Trong thời vua Anawrahta trị vì (1044-1077), người Miến đã mở rộng ảnh hưởng ra khắp Myanmar hiện nay. Tới thập niên 1100, nhiều vùng lớn thuộc lục địa Đông Nam Á đã thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Pagan,thường được gọi là Đế chế Myanmar I, với kinh đô tại Mandalay.

Vua Anawrahta được xem là vị vua quan trọng nhất lịch sử Myanmar. Lịch sử thành văn của Myanmar chỉ chính thức bắt đầu từ khi ông lên ngôi vào năm 1044. Ông đã thực hiện một loạt cải cách xã hội, tín ngưỡng và kinh tế quan trọng để lại những tác động lâu dài tới lịch sử Myanmar và phát triển thành văn hóa Myanmar hiện đại. Di sản của Anawrahta đã vượt ra ngoài cả biên giới Myanmar hiện đại. Việc ông hậu thuẫn Phật giáo Tiểu thừa và việc ông ngăn chặn thành công sự mở rộng về phía Tây của đế quốc Khmer, một nhà nước theo đạo Hindu, đã giúp cho tông Phật giáo này có được chỗ dựa an toàn và phát triển trong những thế kỷ sau này tại Đông Nam Á.

2. Vua Bayinnaung, người mở rộng Myanmar thành đế chế lớn nhất lịch sử Đông Nam Á

Sau sự sụp đổ của triều đại Pagan năm 1287 bởi quân xâm lược Mông Cổ, vương quốc này bị chia nhỏ thành các vương quốc Ava, Hanthawaddy, Arakan và Shan. Những người Myanmar đã phải chạy trốn khỏi Ava thành lập Vương quốc Toungoo năm 1531 tại Toungoo, đây được gọi là Đế chế Myanmar II.
Vua Bayinnaung triều Toungoo đã mở rộng đế chế bằng cách chinh phục hàng loạt các vùng lãnh thổ, tạo thành đế chế lớn nhất trong lịch sử Đông Nam Á, tuy chỉ tồn tại trong 1 giai đoạn ngắn ngủi. Các vua Toungoo đã đưa ra các cải cách về hệ thống hành chính và kinh tế, điều này đã đưa đến giai đoạn ổn định, thái bình, và thịnh vượng cho vương quốc vào thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Những cuộc nổi loạn bên trong cũng như sự thiếu hụt các nguồn tài nguyên cần thiết để kiểm soát các vùng mới giành được dẫn tới sự sụp đổ của Vương quốc Taungoo.

3.Vua Alaungpaya

Người khôi phục lại vương quốc và mở ra thời kỳ văn hiến bậc nhất

Vua Alaungpaya thành lập nên Triều đại Konbaung và Đế chế Myanmar III vào khoảng thập niên 1700, khôi phục lại vương quốc, tiếp tục những cải cách của triều Toungoo, điều này mang lại quyền lực thống trị với các vùng lãnh thổ xung quanh, và đã sản sinh ra nhà nước văn hiến bậc nhất tại Đông Nam Á.
Vương triều Konbaung trong quá trình phát triển đã gây chiến với tất cả các nước láng giềng. Cuối cùng vương quốc bị biến thành thuộc địa của Đế quốc Anh sau 60 năm xung đột. Thực dân Anh đã cố tình đưa ra những khác biệt giữa các nhóm tộc người nhằm gây chia rẽ, chính vì thế kể từ sau khi độc lập năm 1948 đã rơi vào cuộc nội chiến dai dẳng nhất mà đến nơi vẫn chưa hòa giải hết được.

CHIM CÔNG - BIỂU TƯỢNG HOÀNG GIA MYANMAR

Sự ảnh hưởng của loài chim công xanh bắt nguồn từ quá khứ xa xưa, nhưng đến ngày nay vẫn còn rất mạnh mẽ và quan trọng trong tôn giáo, văn hóa, lịch sử và chính trị của đất nước Myanmar
Biểu tượng hoàng gia của các triều đại phong kiến tại Myanmar cũng chính là biểu tượng của quốc gia này: loài chim công xanh.

1. Hình tượng chim công xanh

Chim công xanh phân bố rộng rãi tại khu vực Đông Nam Á, môi trường tự nhiên ưa thích của chúng bao gồm các khu rừng nhiệt đới, cận nhiệt đới nguyên sinh và thứ sinh, những khu rừng lá rụng, rừng tre nứa, thảo nguyên, vùng cây bụi và cả những khu vực canh tác của con người.

Chiều dài cơ thể của chim công xanh trống trưởng thành có thể đạt tới 3 m bao gồm cả phần đuôi dài từ 1,4-1,6 m và cân nặng khoảng 4-5 kg. Bộ lông chiếm tới 60% tổng trọng lượng cơ thể của một con chim công. Sải cánh của loài chim này có thể lên tới 1,5m. Đây là một trong những loài chim lớn nhất trên thế giới. Khác với nhiều loài chim họ Trĩ, chim công bay rất tốt và có thể bay liên tục.

Riêng bộ lông đã chiếm 60% trọng lượng cơ thể loài công

Loài chim này cũng nổi tiếng với bộ lông đuôi tuyệt đẹp và những vũ điệu tán tỉnh kỳ thú. Chim trống khi trưởng thành có bộ lông màu xanh lục ánh thép, có sự kết hợp của nhiều gam màu nổi bật như xanh lá cây, xanh lục bảo, xanh da trời, đen, vàng, tím… Phần đuôi dài có thể xòe rộng thành hình cánh quạt để phô ra những ‘con mắt’ rất đẹp. Bộ lông đuôi của chim công đực đẹp đẽ và rực rỡ nhất khi nó được 5-6 tuổi. Chim công đực xòe đuôi để thu hút chim công cái và giao phối. Khi cảm thấy bị đe dọa bởi các con thú săn mồi, những con chim công đực cũng xòe đuôi để trông chúng to lớn hơn và đáng sợ hơn.

Cựa được chim trống sử dụng để chiến đấu với những con trống khác

Công là loài động vật ăn tạp. Chúng ăn nhiều loại thực vật, trái cây, cánh hoa, các loại hạt, ngũ cốc, côn trùng, bò sát, lưỡng cư và động vật có vú nhỏ. Thậm chí chúng còn có thể săn bắt và ăn thịt cả nhiều loài rắn độc.

Công thích sống ở rừng thưa, đặc biệt chỗ cây bụi và trảng cỏ rậm rạp, có nhiều cây gỗ lớn. Chúng được cho là tồn tại chế độ đa thê, tuy nhiên những con chim trống lại thường sinh sống đơn độc và bảo vệ những con chim mái trong khu vực lãnh thổ của mình trước những con trống khác chứ không thực sự ghép đôi hoặc sinh sống thành đàn.

Do tình trạng săn bắt bừa bãi và sự biến mất của những khu vực sinh sống cho nên loài chim này đang đối diện với nguy cơ tuyệt chủng cao.

2. Chim công trong Phật giáo

Ngoài vẻ đẹp lộng lẫy và rực rỡ, loài chim công còn có ý nghĩa rất quan trọng trong Phật giáo, tôn giáo chính tại Myanmar. Chim công tượng trưng cho sự thanh lọc và trong sạch trong truyền thống Phật giáo với một thực tế rằng chúng có khả năng các loại thực vật và động vật chứa độc tố. Không những không làm hại được chúng, các chất độc này chỉ càng làm màu sắc bộ lông của chim công ngày càng rực rỡ hơn.

Sự thật này tương đồng với Khổng tước Minh Vương trong thần thoại Phật giáo (Khổng tước: con công. Minh: sáng. Vương: vua). Theo Phật Học Từ Điển, Minh Vương là chỉ những vị Tôn giả hầu cận Đức Phật Thích Ca, thọ giáo lệnh của Đức Phật, hiện thân hàng phục bọn ác ma. Tuy là người hầu cận, nhưng các Tôn giả cầm giữ giáo lệnh này đầy quyền uy, trí tuệ và oai đức. Họ ủng hộ các nhà tu hành, đánh phá hết thảy các ma chướng, tuy gần ma giới nhiều nhưng không hề bị vẩn đục, cũng giống như loài công không bị các loại độc tố thâm nhập vậy.

Theo Phong Thần Nội Truyện, loài khổng tước này hiện thân xuống cõi trần là Khổng Tuyên, làm tướng cho vua Trụ, trấn giữ ải Tam Sơn, được vua Trụ sai đem binh đi đánh Khương Tử Nha. Khổng Tuyên có 5 đạo hào quang ngũ sắc rất mạnh mẽ, có thể thu được các bửu bối Tiên gia và bắt các tướng dễ dàng.

Tướng quân Khổng Tuyên

Các tướng của Khương Tử Nha không ai đánh lại Khổng Tuyên, vì không có cách nào khắc chế đạo hào quang ngũ sắc của Khổng Tuyên. Phải chờ Đức Chuẩn Đề Bồ Tát ở Tây phương đến mới thu phục được Khổng Tuyên, bắt hiện nguyên hình là một con công, mình mẩy đỏ tươi cao lớn phi thường, gọi là Châu Khổng Tước. Kể từ đó về sau, Đức Chuẩn Đề Bồ Tát xuất du đều cỡi lên chim Khổng Tước này.

•¤Bồ tát Chuẩn Đề cưỡi Khổng Tước

Khổng Tước Minh Vương còn được xưng là Phật Mẫu vì truyền thuyết nhà Phật kể rằng, đại bàng Kim Sí Điểu và Khổng Tước là 2 thần điểu có sức mạnh khai thiên lập quốc được sinh ra từ Phượng Hoàng. Nghe đồn qua suốt mấy ngàn năm ngày đêm tu hành, Khổng Tước khổ luyện thành phép Ngũ sắc thần quang. Toàn thân Khổng Tước rực lửa cháy, chỉ cần đến gần là tan tành, là loài dã thú kiêu hãnh nên hay tác oai tác oái, thảm sát sinh linh, tính tình hung ác. Khi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, Khổng Tước nuốt Đức Phật vào trong bụng. Phật tổ định lấy tính mạng của Khổng Tước để giúp chúng sanh nhưng các vị tiên nói nếu Phật tổ giết Khổng Tước thì chẳng khác nào giết cha mẹ của mình. Sau đó lưng của Khổng Tước Minh Vương nứt ra, Đức Phật Thích Ca hiện ra ngồi trên lưng của Khổng Tước, vết nứt liền lại, vì vậy Khổng Tước được xưng là Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Bồ Tát.

• Loài chim được ví như mẹ của Phật Thích Ca

Hơn nữa, bộ lông đuôi của chim công còn là biểu tượng của sự hoàn chỉnh và hợp nhất của Phật giáo cũng như sự tồn tại ngắn ngủi của tất cả mọi thứ trên thế gian, vì khi loài công xòe bộ lông đuôi ra, nó kết hợp tất cả màu sắc tạo thành một thể thống nhất, nhưng mọi thứ lại biến mất nhanh chóng khi nó xếp chúng lại. Những ‘con mắt’ trên bộ lông đó còn tượng trưng cho sự quan sát thế gian một cách từ bi của Phật giáo.

Người Myanmar còn có một điệu múa truyền thống phỏng theo loài công vào ngày lễ Ok Phansa (ngày cuối cùng của tuần chay Phật giáo) để chào mừng Đức Phật từ cõi cực lạc trở lại thế gian. Điệu múa được thể hiện trong các bộ trang phục sặc sỡ và phức tạp, bắt chước các động tác thường thấy của loài công, nổi bật nhất là động tác xòe và rung bộ lông đuôi rực rỡ.

3. Trở thành biểu tượng quốc gia

Trong lịch sử Myanmar, tầm quan trọng của loài công bắt nguồn từ một quá khứ phức tạp cũng giống như bộ lông tuyệt đẹp của chúng. Hình ảnh một con công xanh xòe đuôi đã được sử dụng làm biểu tượng của chế độ phong kiến tại Myanmar, được khắc họa trên quốc kỳ và đồng tiền của vương triều Konbaung. Loài công được chọn bởi vì chúng tượng trưng cho niềm tin rằng vua chúa Myanmar là những hậu duệ của Mặt trời. Thật vậy, mặt trời gắn liền với loài công theo nhiều cách. Người ta còn tin rằng loài công liên quan đến nạn hạn hán gây ra bởi mặt trời, và hiến tế chim công là một cách cầu mưa, cầu cho mùa màng bội thu và cũng như cầu cho khả năng sinh sản của con người.

Chim công trên đồng tiền Kyat

Với tầm ảnh hưởng quan trọng trong Phật giáo và nền quân chủ phong kiến, loài công hẳn nhiên trở thành một biểu tượng nổi bật trên rất nhiều các lá cờ của Myanmar. Ngoài quốc kỳ của Đế chế Myanmar III, chúng còn được thể hiện trong thời kỳ thuộc địa Anh trên lá cờ của thống đốc và hải quân ,cũng như trên lá cờ của Nhà nước Myanmar từ năm 1943-1945.

Hình ảnh loài công thậm chí còn được sử dụng làm lá cờ của phong trào dân chủ của sinh viên Myanmar năm 1988, nhưng thời điểm này đã tiến hóa thành một chú công nổi giận trong tư thế chiến đấu, thể hiện tinh thần tự do đấu tranh chống chế độ độc tài của quân đội.

Hình ảnh con công chiến đấu này cũng đã được Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (National League for Democracy) lãnh đạo bởi bà Aung San Suu Kyi sử dụng để tôn vinh những sinh viên biểu tình chống lại chính phủ năm 1988.

Hình ảnh này ngày nay thể hiện cho những thập kỷ đấu tranh chống lại chế độ độc tài quân sự và giành lấy sự tự do dân chủ ngày nay tại Myanmar. Ngày 30/3/2016, ông Htin Kyaw, một người đồng minh thân cận của bà Aung San Suu Kyi đã được bầu làm tổng thống dân sự (không có nguồn gốc từ quân đội) đầu tiên của Myanmar, chấm dứt gần 50 năm đất nước Myanmar nằm dưới sự cai trị của quân đội.

• Các dân tộc
• Ăn trầu
• Longing
• Thanaka
• Voi Trắng

Nhận xét

Đăng nhận xét

Zalo
Facebook
Hotline: 0918 290 015