MYANMAR--LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC
Thời kỳ phong kiến Miến Điện (trước năm 1886)
Chế độ phong kiến ở Miến Điện được hình thành từ rất sớm. Các tài liệu lịch sử và khỏa cổ học của Miến Điện đã chứng minh, chính những nhóm daant ọc di cư đến Miến Điện từ các vùng, miền khác nhau đã lập nên vương triều phong kiến rực rỡ và có vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành đất nước Miến Điện. Đó là các tộc người Mon, Miến, Pyu, Shan, và Rakhine.
Vào khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, người Mon từ những vùng đất ngần phía Thái Lan và Campuchia ngày nay đã tiến vào Miến Điện, di cư xuống vùng đồng bằng Ayeyarwady lạp nên vương quốc Thanlwin và Sittang, trồng trọt và bán gạo, gỗ teak, khoảng sản, ngà voi sang Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông và Đông Dương. Họ là những người đầu tiên tiếp xúc với đạo Phật.
Thế kỷ I trước Công nguyên, một số bộ tộc Tạng – Miến trong đó có người Pyu và những bộ tộc liên minh với họ, rời khỏi quê hương ở sườn đông nam cao nguyên Tây Tạng di cư về phương Nam, tiến vào thung lũng thượng nguồn sông Ayeyarwady lập nên các quốc gia phong kiến ở miền Trung Miến Điện như Beikthano, Hanlin, Sri Ksetra (Thayekhittaya). Các triều đại của người Pyu phát triển rực rỡ trong khỏng 400 năm.
Tuy nhiên, đến các thế kỷ sau thì quốc gia này bị biến mất. Một số thử thách cho rằng, họ đã bị người Mon hoạc những tộc người xâm nhập từ đại lục Trung Quốc thôn tính. CŨng giống như người Mon, người Pyu rất sùng bái Phật gió Tiếu thừa. Các tác phẩm nghệ thuật của người Miến hiện nay ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng của người Pyu xưa kia.
Vào thế kỷ VIII-IX, người Miến từ phía đông dãyHimalayađến thay thế người Pyu ở vùng Trung Miến Điện và lập nên vương quốc riêng của mình ở đây. Ban đầu, họ chọn Tagaung ở phía Bắc Mandalay làm nơi xây dựng gia, trước khi chuyển đến Bagan vào năm 849.
Vào thế kỷ XII, người Shan, hay còn gọi là người Tai, từ Vân Nam – Trung Quốc tiến vào Đông Bắc Miến Điện và lập nên quốc gia riêng của mình ở khu vực Đông Bắc Miến Điện.
Nhiều tài liệu sử học Mianma cho thấy, người Rakhine (Arakanese) đã có quốc gia riêng ở Miến Điện và lập nên quốc gia riêng của minhfowr khu vực Đông Bắc Miến Điện.
Nhiều tài liệu sử học Mianma cho thấy, người Rakhine(Arakanese)đã có quốc gia riêng ở Miến Điện vào thế kỷ VI. Sự hiện diện chính thức và toàn iện của quốc gia người Rakhine ở Miến Điện vào thế kỷ XV, khi vị vua theo đạo Phật của họ đặt kinh đôtại Mrauk U và lực lượng hải quân của họ nắm giữ phần lớn vịnhBengal.
Có thể nói, những quốc gia của các tộc người kể trên là những triều đại phong kiến đầu tiên của Miến Điện. Những thế kỷ tiếp theo là những khoản thời gian chứng kiến sự phát triển, suy tàn của các vương triều phong kiến Miến Điện. Lịch sử ghi nhận thoief kỳ phong kiến Miến Điện được đánh dấu bởi ba đế chế phong kiến hùng mạnh.
Thời kỳ đế quốc Miến Điện lần thứ nhất – triều đại Bagan (1044-1287)
Năm 849, sau khi người Pyu bị người Mon đẩy ra khỏi miền Bắc, người Miến đã thiết lập khu vực định cư riêng của mình và lấy Bagan làm nơi định cư riêng của mình và lấy Bagan làm nơi đóng đô của họ. Suốt hai thế kỷ sau, các triều đại không ngừng tiến hành những cuộc chiến tranh để tranh giành binh quyền. Năm 1044, một thủ lĩnh quân sự người Miến dòng dõi hoàng tộc là Anawrahta, sau khi giết chết Vua Sokkat đãtrở thành vua của Bagan, mở ra mottj thời kỳ huy hoàng trong lịch sử Miến Điện.
Trong 33 năm trị vì, Vua Anawrahta đã chinh phục các quốc gia của người Mon, tiến quân sang Nam Chiếu (Vân Nam, Trung Quốc) để biểu dương sức mạnh, quy phục các thủ lĩnh tộc Shan, thống nhất toàn bộ vùng đất ngày nay là Miến Điện, chỉ trừ vùng cao nguyên Shan, một phần Arakan và vùng Taninthayi. Triều đại của Vua Anawrahta được coi là đế quốc Miến Điện thứ nhất – với tư cách một quốc gia thống nhất về chính trị, các vương quốc nhỏ chịu quy phục Miến triều.
Không chỉ là vị vua đầu tiên thoonhs nhất được Miến Điện, Vua Anawrahta còn là vị vua đầu tiên truyền bá đạo Phật ở Miến Điện. Ông đã đưa về Bagan toàn bộ 32 cuốn kinh Theravada, chữ viết của người Mon và ra lệnh xây dựng Bagan thành kinh đô của chùa tháp, thiền viện vĩ đại trong đó có chùa Shwezigon – được coi là hình mẫu của chùa Miến Điện sau này. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Bagan nhanh chóng trở thành điểm thu hút các tín đồ đạo Phật ở khu vực Đông Nam Á bởi những công trình chùa tháp đồ sộ, nguy nga.
Không thể thôn tính các thế lực cát cứ, thống nhất Miến Điện, Vua Anawrahta còn thực hiện chính sách giao lưu hòa hiếu với các nước láng giềng như Nam Chiếu ở phía bắc, Xri Lanca và Ấn Độ ở phía tây; đồng thời thu phục các thế lực nhỏ yếu bên lãnh thổ Thái Lan.
Triều đại Bagn để lại trong lịch sử Miến Đện nhiều kệt tác về kiến trúc chùa tháp và các công trình thủy lợi lớn như hồ chứa nước Meiktila, hệ thống thủy lợi Kyokxe. Suốt hơn hai thế kỷ tồn tại của triều đại Bagan, kinh tế Miến Điện, nhất là nông nghiệp, rất phát triển.
Năm 1077, Vua Anawrahta chết, vương triều này đi vào thời kỳ suy vong. Các vị vua kế nhiệm như Kyaanzitha, Alaungsithu và Htilomoin không những không thực hiện được các tư tưởng lón của Vua Anawrahta mà còn tranh giành quyền bính, chia rẽ nội bộ khiến đế quốc Bagan suy yếu dần.
Trong thời kỳ cuối triều đại Bagan, đã xảy ra ba cuộc chiến tranh Miến – Nguyên kéo dài suốt 24 năm (1277-1301)
Lần thứ nhất, sau khi triều đình Mông Cổ thôn tính xong Vương quốc Nam Chiếu vùng Vân Nam, Trung Quốc vào năm 1253, đế quốc Nguyên Mông đòi triều đình Miến Điện phải cống nạp. Năm 1273, sứ giả Nguyên Mông lá Khất Giác Thoát Nhân đến chiêu phục Miến Điện với thái độ ngạo mạn và bị Vua Miến Điện Naratgugapate từ chối. Tháng 3-1277, quân Nguyên từ Vân Nam, Trung Quốc do tướng Hốt Đô dẫn đầu tiến vào lãnh thổ Miến Điện. Các cuộc xung đột ác liệt ở khu vực biên giới diễn ra khiến quân đội hai bên đều bị thiệt hại nặng. Quân Nguyên buộc phải rút lui.
Lần thứ hai, năm 1282, Vua Nguyên là Kublai Khan (Hốt Tất Liệu) cử đoàn sứ giả 10 người cùng đoàn hộ tống hùng hậu đến kinh đô Bagan đòi triều đình Miến Điện cống nạp. Vì quá ngạo mạn, cả đoàn sứ thàn nhà Nguyên bị vua Miến Điện Naratgugapate ra lệnh giết hết. Sự kiện này khiến Hốt Tất Liệt nổi giận, quyết tâm báo thù. Mùa thu năm 1283, Hốt Tất Liệu đều một đạo quân lớn từ Vân Nam, do tướng Tương Ngô Hợp Nhi chỉ huy, tiến sang trừng phạt Miến Điện.
Chiến sự diến ra quyết liệt ở phòng tuyến sông Bhamo, phía Bắc Miến Điện. Trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên, quân Miến Điện phải rú lui, nội bộ hoàng cung Miến Điện bất hòa chia rẽ. Quân Nguyên tiến sát đến kinh đô Bagan.
Năm 1287, vương triều Miến Điện không thể đứng vững trước sự tấn công ồ ạt của quân Nguyên Mông. Bagan thất thủ, đế quốc phong kiến Miến Điện lần thứ nhất bị diệt vong. Triều đình Nguyên Mông tuyên bố vùng lãnh thổ phía Bắc và miền Trung của Miến Điện là hai tỉnh của đế quốc Nguyên Mông trên đất Miến Điện. Các vị vua người Miến tiếp theo đều cam chịu làm chư hầu của triều đình nhà Nguyên ở Bắc Kinh.
Sau khi tàn phá Bagan, quân Nguyên Mông rút về phía Bắc Miến Điện, đất nước Miến Điện rơi vào thời kỳ hỗn loạn. Mười năm sau, năm 1297, “ba anh em người Shan” (bố là người Shan, mẹ là người Miến) do Axamkhaya làm thủ lĩnh, nổi lên tập hợp dân chũng khỏi nghĩa, kiểm soát miền trung Miến Điện chống lại sự đô hộ của quân Nguyên Mông. Lực lượng khởi nghĩa của “ba anh em người Shan” không ngừng lớn mạnh, đã đánh đuổi quân Nguyên đến ngần biên giới VânNam.
Lần thứ ba, đầu năm 1301, triều đình Nguyên cử tướng Mang Ngột Đô Lỗ Mê Thất dẫn 12000 quân sang Miến Điện dẹp loạn, nhưng bị lực lượng quân đội Miến Điện do Axamkhaya lãnh đạo chống trả quyết liệt, quân Nguyên Mông bị thương vong nhiều vì chiến tranh và bệnh tật. Tháng 3-1301, Mang Ngột Đô Lỗ Me Thất buộc phải xin hòa đẻ rút quân về Trung Quốc, chấm dứt cuộc chiến tranh Miến – Nguyên. Sau khi thất bại trở về nước, các tướng Nguyên Mông bị Hốt Tất Liệt trừng trị với nhiều hình phạt khác nhau, kể cả tử hình
Ba thế kỷ tiếp theo là thời kỳ Miến Điện rơi vào tình trạng phân tranh bất hòa, chia rẽ. Tranh thủ thời cơ sụp đỗ của đế chế bagan , người Mon dưới sự lãnh đạo cảu Vua Dhammazedi đã di chuyển xuống miềnNamvà lập ra vương quốc Hanthawady tại Bago, năm 1472. Vương triều này tiêp tục làm sống lại đạo Phật với việc xây dựng các chùa tháp ở kinh đô và mở rộng xây dựng chùa Shwe Dagon ởYangon.
Dưới thời cai trị của các vua người Mon, quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây cúng bắt đầu được chú ý.Người Mon chính là những người mở đường cho quan hệ với Phương Tây sau này.
Trong khi đó, người Shan cũng tách khỏi đế quốc Miến Điện, nắm quyền kiểm soát ở phía bắc, thành lập quốc gia Inwa năm 1364. Người Rakhine cũng lập quốc gia riêng của mình tại vùng phía tây Miến Điện. Những người Miến còn lại rút về Tangoo bên bờ sông Sittang chờ đợi cơ hội tái thống nhất Miến Điện.
Đến đầu thế kỷ XVI, trên lãnh thổ Miến Điện hình thành bốn trung tâm quyền lực mang đậm chất chủng tộc: phía tây là quốc gia Inwa của người Shan; phía nam là quốc gia Bago của người Mon và phía đông là quốc gia Toungoo của người Miến.
Nhận xét
Đăng nhận xét