Translate

Myanmar-- danh lam cổ tự

 

1) Ngôi danh lam cổ tự Kyauk Taw Gyi, Yangon, Myanmar (Tượng đá cẩm thạch)

Ngôi danh lam cổ tự Kyauk Taw Gyi tọa lạc trên đồi Mindhama, thị trấn Mingalardon, cách trung tâm thành phố Yangon 14km về phía Tây Bắc, gần sân bay quốc tế Yangon và nhà tù Insein nổi tiếng, một trong những ngôi danh lam thắng cảnh Phật giáo ấn tượng nhất của thành phố Yangon.

Nơi đây có một trong những tượng Phật lớn nhất ở Myanmar. Tượng Phật nhập Niết bàn khổng lồ, dài 70 mét. Hình ảnh gốc được tôn tạo vào đầu thế kỷ 20 (1907). Nhưng sau đó pho tượng đã bị thiệt hại do khí hậu, thời tiết trong nhiều năm. Năm 1957, pho tượng bị phá hủy và được phục dựng lại vào năm 1966.

Một pho tượng đức Phật Thích Ca với tư thế tọa thiền được tạc từ bằng đá cẩm thạch Myanmar nguyên khối cao 11 m và nặng hơn 600 tấn, và được đặt trong khung kính vô cùng hiện đại. 

Nguyên khối đá cẩm thạch được khai thác gần thành phố cổ Mandalay vào năm 1999, chế tác tôn tượng Phật hoàn thiện vào ngày 10/07/2000 với danh xưng “Loka Chantha Abhaya Labha Muni”.

Khối đá cẩm thạch được vận chuyển bằng một chiếc tàu hỏa đặc biệt, sau đó được đặt trên một chiếc sà lan dài dài 200 feet (61 m) do Công ty Thế giới Châu Á hiến tặng.

Sà lan được đẩy xuống sông Irrawaddy bởi ba tàu hơi nước, dừng dọc theo các thị trấn lớn trước khi tới Yangon. Sà lan đã được đi kèm với một đội tàu trang trí của các tàu thuyền.

Tượng Phật đá cẩm thạch được đưa về thành phố Yangon vào ngày 05 tháng 08 năm 2000, lễ cung nghinh pho tượng có đến năm trăm nghìn người tham dự, trong đó có sự hiện diện của Chủ tịch Hội đồng Hòa bình và Phát triển Liên bang và đệ nhất phu nhân Kyaing Kyaing, Thủ tướng thứ 9 Chính phủ Myanamr Khin Nyunt.

Năm 2003, cái bát khổng lồ khất thực được chạm khắc bằng đá cẩm thạch nguyên khối và đưa đến Yangon và đặt trên đồi Minn Dhamma.

Ngôi danh lam cổ tự Kyauk Taw Gyi được xây dựng với biểu trưng đặc biệt bởi 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của đức Phật. Câu chuyện hành trình của pho tượng cẩm thạch “Loka chantha Abhaya Lahamuni Buddha Imge” được khắc trên bia đá bằng bốn thứ ngôn ngữ: Yanmar, Anh, Oriental (Parli) và Thet-ka-ta.

Có hai bậc thang để đến chùa, có chiều rộng 24 feet (7.315200m), dài 246 feet ( 74.98080m) và được bao quanh bởi cây xanh tươi, kỳ hoa dị thảo. Lối vào của mỗi bậc thang có hai sư tử lớn lớn chạm khắc cao 36 feet (10.97280m). Du khách có thể nghỉ ngơi dưới tán cây và có thể ngắm nhìn cái bát khổng lồ và chiêm ngưỡng pho tượng Phật, bảo tháp, pho tượng Phật Thích Ca, tháp Dhapanet, tháp Aung Chan Thar và tháp Nat Lu Chan Thar trên nền tảng của chùa.

Chùa Chaukhtatgyi

Đường Shwegondaing , Bahan, Yangon, Myanmar

Ngôi chùa Chauk Htat Gyi tại Yangon vốn nổi tiếng với bức tượng Phật nằm khổng lồ dài 65m. Ngôi chùa này nằm ngay ở phía Bắc của công viên Kandawgyi. Bức tượng Phật này hoàn thành vào năm 1907. Tuy nhiên, sau này, trả qua nhiều thập kỉ, bức tượng đã bị hư hỏng đáng kể. Vì thế, một Phật tử đã quyết định đứng ra trùng tu lại bức tượng. Công cuộc trùng tu diễn ra vào năm 1966. Bức tượng sau đó được chỉnh sửa lại và dài thêm 5m so với ban đầu. Toàn bộ chi phí đều do sự quyên góp của các Phật tử và du khách nước ngoài. Tên của những "mạnh thường quân" này hiện vẫn được ghi lại trên những thanh dầm của chùa.


Bức tượng Phật trong chùa hiện nay dài 65m và cao 16m. Bức tượng khắc hoạ hình ảnh Đức Phật đang nằm, tay phải đỡ lấy đầu và mặc một chiếc áo cà sa vàng. Bức tượng Đức Phật này được trang trí hết sức cầu kì và lộng lẫy với khuôn mặt trắng, môi đỏ, mắt xanh, chiếc áo cà sa vàng và những móng tay sơn đỏ. Phía dưới bàn chân Phật là 108 biểu tượng màu đỏ và vàng tượng trưng cho những kí hiệu linh thiên của Phật giáo. Các Phật tử khi đến đây đều thắp hương và dâng hoa bày tỏ lòng thành kính với Đức Phật. Bên trong chùa cũng có một vài phiến đá ghi bằng tiếng Anh và tiếng Miến Điện viết về lịch sử của Phật giáo cũng như những lời răn của Phật. 

Xung quanh chùa có một vài nhà tu, nơi có hàng trăm tu sĩ nghiên cứu về Phật học. Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có 8 ngôi đền, tương ứng với 8 ngày trong tuần theo cách tính thiên văn của châu Á (thứ 4 được chia ra làm 2 ngày). Những cư dân địa phương đến đây thường đến cầu nguyện tại ngôi đền tương ứng với ngày sinh của mình.

 

 

 

VOI

1. Hiện nay trên thế giới chỉ có 3 loài voi là còn tồn tại : Voi bụi rậm và voi rừng châu Phi cùng giống voi châu Á ( hay thường gọi là voi Ấn Độ ) còn tất cả các loài voi khác đều đã tuyệt chủng.

 

2. Voi là loài động vật trên cạn lớn nhất trên thế giới còn sống. Những chú voi to nhất được ghi nhận là tại Angola vào năm 1956 với con đực nặng khoảng 11.000 kg và cao gần 4 m, hơn hẳn 1m so với những con voi châu Phi thông thường.

 

3. Thời kỳ mang thai của voi là 22 tháng, lâu nhất trong các loài. Một chú voi con mới sinh cũng đã nặng gần 120 kg. Tuổi thọ của loài voi thông thường là từ 50 đến 70 năm và con voi sống thọ nhất là 82 năm.

 

4. Với khối lượng gần 5 kg, não của voi cũng lớn hơn bất kỳ loài nào khác. Chính vì thế, chúng là một loài vật rất thông minh như biết biểu lộ nỗi buồn, lòng trắc ẩn, có thể chơi nhạc cụ, có năng khiếu hội họa và sử dụng khéo léo các công cụ khác nhau.

 

5. Voi là một loài có trật tự xã hội được phân chia rất rõ ràng. Đời sống xã hội của con đực và con cái rất khác nhau. Con cái sẽ dành cả đời để gắn bó khăng khít trong một cộng đồng lớn với nhiều thế hệ. Các con lớn tuổi nhất sẽ làm nhiệm vụ của con đầu đàn, dẫn dắt những con còn lại. Trái lại thì những con voi đực khi trưởng thành thường sống một cuộc sống riêng biệt, tách rời khỏi bầy đàn.

 

6. Chiếc ngà voi thực chất là chiếc răng cửa thứ hai của voi. Ngà voi phát triển liên tục và mỗi năm có thể dài ra khoảng 18 cm. Công dụng của chúng rất đa dạng từ đào đất tìm nguồn nước, tước vỏ cây để ăn, dọn dẹp cây cối hay những vật ngáng đường. Không những thế, voi còn dùng ngà voi để đánh dấu trên cây để phân định lãnh thổ với những đàn khác và dĩ nhiên đó còn là một vũ khí hữu hiệu để chống lại kẻ thù.

 

7. Chiếc vòi là sự kết hợp độc đáo giữa mũi và môi trên, tạo thành một bộ phận phụ rất linh hoạt và quan trọng nhất của loài voi. Chiếc vòi voi vừa đủ khéo léo để nhặt một cọng cỏ lại vừa mạnh mẽ để bẻ gãy cành cây.

Chiếc vòi thường được voi sử dụng để uống nước. Voi sẽ hút nước vào vòi (khoảng 14 lít nước/ lần) sau đó phun nước vào miệng để uống. Nó cũng có công dụng như một chiếc vòi hoa sen khi voi tắm rửa. Vào những ngày nắng nóng, voi lại dùng vòi phủ thân mình bằng bụi và bùn khô để tạo thành một lớp bảo vệ có tác dụng như kem chống nắng mà chúng ta hay sử dụng vậy. Còn khi bơi, chiếc vòi đóng vai trò là một ống thở tuyệt vời vô cùng hữu hiệu.

8. Voi bơi rất giỏi còn những việc như nhảy hay phi nước đại thì chúng “xin kiếu” vì trở ngại bởi thân hình cồng kềnh quá khổ của mình. Voi chỉ có hai dáng điệu : đi bộ thủng thẳng hay rảo bước nhanh hơn giống như đang chạy.

 

9. Voi châu Phi có thể được phân biệt với loài voi châu Á dựa trên một số điểm mà điểm đặc biệt nhất là chúng có đôi tai lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra, giống voi châu Á thì chỉ con đực mới có ngà còn voi châu Phi thì con đực hay con cái đều có và bộ lông của chúng cũng “thưa thớt” hơn so với loài họ hàng của mình.

 

10. Voi là loài động vật ăn cỏ và chúng dành 16 tiếng mỗi ngày cho việc ăn uống. Đồ ăn ưa thích của chúng thay đổi tùy theo mùa, thói quen hay khu vực sinh sống. Thông thường, chúng hay chọn ăn các loại vỏ cây, lá hay quả trên cây hay bụi rậm nhưng có một số loại cỏ và thảo mộc cũng được chúng khá ưa thích.

Chuyện Chưa Kể Về Những Chú Voi Trắng Myanmar

Voi trắng Myanmar là loại vật mang ý nghĩa tâm linh đặc biệt với người dân Myanmar. Chúng xuất hiện trong những huyền thoại cổ xưa và hiện diện trong cuộc sống thường ngày với vai trò cực kỳ quan trọng. Du lịch Myanmar du khách đừng quên tìm hiểu về loài vật kỳ bí này nhé

 

Voi trắng Myanmar là biểu tượng quyền lực và linh thiêng tại xứ sở này. Người Myanmar tin rằng voi trắng là linh vật mang lại sự bình yên và hưng thịnh cho dân tộc của mình. Trước đây khi nhắc đến nhà vua, để thể hiện uy quyền và sự oai nghiêm người ta thường sử dụng danh xưng “chúa tể của voi trắng”. Ngày nay voi trắng ở Myanmar vẫn là biểu tượng được người dân tại đây tôn sùng. Du lịch Myanmar du khách sẽ không khó để nhận thấy sự hiện diện của loài vật , người ta còn xây dựng hẳn một nhà voi trắng và chăm sóc chúng vô cùng chu đáo.

Voi trắng Myanmar, biểu tượng của sự may mắn và quyền lực của xứ sở vạn chùa

Tại Myanmar voi trắng  được xem như bảo vật, người ta quan niệm sự xuất hiện của một con voi trắng chính là điềm báo cho sự hưng thịnh của quốc gia. Rất nhiều du khách đã bất ngờ khi loài voi trắng Myanmar lại được trân trọng đến vậy. Hãy cùng cẩm nang du lịch Myanmar khám phá những điều thú vị về loài voi trắng trong văn hóa, tâm linh của người Myanmar nhé.

Voi trắng Myanmar và truyền thuyết có thật

Theo truyền thuyết của người Myanmar, từ ngày xưa các chú voi trắng khi còn nhỏ được bú sữa trực tiếp từ bầu ngực của những người phụ nữ. Đến khi lớn lên voi trắng Myanmar được mặc những bộ quần áo đắt đỏ, sống trong những ngôi nhà bằng vàng, nạm kim cương, sử dụng thức ăn trong các máng bằng vàng. Vị thần Indra, người được mệnh danh là vua của các vị thần được khắc họa với hình ảnh đang ngồi trên lưng của một loài vật giống y hệt voi trắng Myanmar. Các bậc vua chúa ngày xưa của Myanmar rất coi trọng loài vật này.

Voi trắng Myanmar trong đời sống hiện nay

Ngày nay tại Myanmar, voi trắng vẫn là một linh vật được coi trọng. Người ta còn xây dựng cả ngôi nhà dành riêng cho voi ở và chăm sóc chúng một cách hết sức chu đáo. Voi trắng cũng xuất hiện tại các công trình kiến trúc của Myanmar tại thủ đô Naypyidaw và tại Yangon, hầu hết những nơi này đều là những điểm du lịch hút khách.

Các nhà lãnh đạo tại xứ sở vạn chùa ngày nay cũng tôn sùng voi trắng Myanmar. Du khách khi đến với vườn voi trắng quốc gia tại Naypyidaw sẽ được phát những tờ rơi với nội dung ca tụng loài voi trắng của Myanmar. Voi trắng luôn xuất hiện dưới triều đại của những minh quân và là tài sản của những vị vua có khả năng đưa đất nước phát triển.

Người Myanmar quan niệm nếu như có sự xuất hiện của voi trắng có nghĩa là một điềm may mắn, báo hiệu thịnh vượng. Nếu như voi trắng Myanmar biến mất thì được coi như một điềm báo cho thảm họa. Trong lịch sử tại vương triều Thibaw, ngay sau cái chết của chú voi trắng mà nhà vua yêu thích thì triều đại bị lật đổ bởi sự xâm lược của thực dân Anh.

Chính vì quan niệm về sự linh thiêng của voi trắng Myanmar mà chính quyền với người dân tại đây chăm sóc loài vật này cực kỳ chu đáo. Tại Naypyidaw hiện đang nuôi 6 chú voi trắng  tại một khu đất rộng. Nhà của voi được mạ vàng phần mái, nền nhà luôn được dọn sạch. Mỗi sáng những chú voi này đều được tắm rửa sạch sẽ, mát xa và cho ăn sáng bằng cỏ và mía ngọt được trồng tại một trang trại riêng. Cuối ngày quy trình này sẽ được lặp lại, thậm chí trước khi cho chúng đi ngủ, người quản tượng còn phải kiểm tra chúng một lượt kỹ càng. Tại Yangon hiện cũng còn 3 chú voi trắng Myanmar, trong đó có một con được sinh ra ngay tại môi trường nuôi nhốt.

Ở Myanmar, nơi máy móc vẫn còn khá lạc hậu thì loài voi vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất, kéo gỗ và làm cách công việc cần nhiều sức mạnh. Tuy nhiên riêng voi trắng ở Myanmar thì lại khác, chúng được chăm sóc như một linh vật đặc biệt và trở thành biểu tượng cho quyền lực.

Trong các lễ hội quan trọng của hoàng gia và có tính chất thiêng liêng, voi trắng Myanmar được sử dụng để rước kiệu, chúng tham gia lễ hội như một phần quan trọng nhất. Tại một số ngôi chùa, hình ảnh voi trắng được đặt ở vị trí trang trọng, đại diện cho cả ngôi chùa. Du lịch Myanmar du khách có thể ghé thăm nhà voi tại thủ đô Naypyidaw  và tìm hiểu thêm về voi trắng Myanmar, rất nhiều du khách nước ngoài đã vô cùng thích thú khi lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy loài voi trắng bằng xương bằng thịt trong truyền thuyết. Bên cạnh ghé thắm những ngôi chùa lộng lẫy, những ngôi đền thâm trầm thì tìm hiểu về văn hóa, đời sống tâm linh của người Myanmar sẽ mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên.

 

 

Chùa Shwedagon

Chùa Shwedagon (Shwedagon Zedi Daw /ʃwèdəɡòun zèdìdɔ̀/), hay Chùa Vàng, ở Yangon được coi là ngôi chùa linh thiêng nhất Myanma. Tại đây có lưu giữ báu vật thiêng liêng đối với các tín đồ Phật giáo, đó là tám sợi tóc của Phật Thích Ca Mâu NiStupa dát vàng của chùa cao tới 98 mét trên đỉnh nạm 5448 viên kim cương và 2317 viên hồng ngọc, trên cùng là búp kim cương gắn một viên kim cương 76 carat (15 g). Chùa lại nằm trên đồi Singuttara, từ đây có thể quan sát được cả thành phố Yangon.

Theo truyền thống Phật giáo Myanmar, Trapusa và Bahalika là 2 anh em thương gia đến buôn bán ở Balkh (nay thuộc Afghanistan), trên đường quay về họ đã được gặp Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ đã dâng cúng đồ ăn và được Phật thu nhận làm 2 cư sĩ đệ tử đầu tiên, đồng thời ban cho 8 xá lợi tóc. Khi trở về, họ đến Myanmar và được vua Okkalapa giúp dỡ tìm ra Đồi Singuttara, gần kinh thành Pokkharavati để xây bảo tháp thờ phụng 8 sợi tóc. Nơi này về sau chính là Chùa Shwedagon.

Theo truyền thuyết và theo ghi chép của các nhà sư, ngôi chùa có từ trước khi Phật qua đời, nghĩa là có cách đây 2.500 năm. Tuy nhiên các nhà khảo cổ học cho rằng nó được xây lần đầu vào khoảng thời gian từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 10.

Stupa (phù đồ) từng bị hư hại suốt một thời gian dài và được Vua Binnya U của Hanthawaddy sửa lại. Ban đầu, nó cao khoảng hơn 8 mét. Đến khi vua Binnya U sửa lại, nó được nâng lên hơn 20 mét. Hoàng hậu Shinsawbu (1453–1472) cho nâng tháp cao thành 40 mét. Hoàng hậu còn cho lát gạch quả đồi và trên đỉnh đồi sân chùa lát đá.

Năm 1608, một toán quân Bồ Đào Nha do Philip de Brito e Nicote đã cướp phá chùa. Chúng cướp đi quả chuông lớn Dhammazedi mà Vua Dhammazedi đã dâng cho chùa. Philip de Brito e Nicote định nấu chảy quả chuông đó để đúc đại bác. Nhưng khi chở qua sông Bago, chuông bị chìm và đến nay vẫn chưa được tìm ra.

Những trận động đất ở thế kỷ 17 đã làm ngôi chùa bị hư hại nghiêm trọng. Trận động đất dữ dội năm 1768 đã làm đỉnh tháp bị rơi. Vua Hsinbyushin nhà Konbaung đã cho sửa chữa lại tòa tháp và nâng nó lên độ cao hiện tại.

Năm 1779, Vua Singu Min cho đúc và dâng nhà chùa một quả chuông, gọi là chuông Maha Gandha ("âm thanh tuyệt diệu") nhưng dân gian hay gọi là chuông Singu Min.

Tháng 5 năm 1824, quân Anh đổ bộ vào xâm lược Myanma. Chúng lập tức chiếm đóng ngôi chùa và biến đây thành một pháo đài tới mãi hai năm sau mới rút đi. Quân Anh lấy quả chuông Singu Min định đem tới Calcuta, nhưng nó cũng bị chìm xuống sông như chuông Dhammazedi. Quân Anh cố tìm mà không thấy. Người Myanma liền đề nghị để họ giúp tìm với điều kiện họ được đem quả chuông trở về chùa. Tưởng người Myanma không vớt nổi, quân Anh đồng ý. Các thợ lặn Myanma đã lặn xuống và buộc quanh quả chuông hàng trăm cây tre, nhờ đó quả chuông được kéo nổi lên.

Năm 1827, trung tá J.E. Alexander cho đúc và tặng chùa một quả chuông tương tự chuông Singu Min. Hiện chuông này treo trong lầu chuông ở góc tây bắc sân chùa.

Năm 1841, Vua Tharrawaddy sai đúc một quả chuông nặng 42 tấn bằng đồng và dát vàng (khoảng 20 kg vàng), đặt tên là chuông Maha Tissada ("ba âm thanh"). Chuông này treo trong lầu chuông ở phía đông bắc tòa tháp.

Năm 1871, Vua Mindon Min cho dựng một cái lọng (hti) ở chùa.

Trong chiến tranh Anh-Miến thứ hai, quân Anh lại chiếm đóng chùa và lần chiếm đóng này kéo dài tới 77 năm, đến tận năm 1929. Mặc dù vậy, người dân và tín đồ vẫn được vào chùa hành lễ.

Trận động đất vừa phải năm 1970 làm cái cán lọng rời ra, khiến chính phủ phải tiến hành sửa chữa.

Tháng 1 năm 1946, Aung San đã diễn thuyết trong một cuộc mít tinh lớn ở quanh tháp để kêu gọi chính quyền thực dân Anh trả độc lập cho Myanma nếu không sẽ tổng bãi công và nổi dậy. Bốn mươi hai năm sau, ngày 26 tháng 8 năm 1988, con gái ông - Aung San Suu Kyi - đã diễn thuyết trong một cuộc mít tinh lớn khác đông tới 500 nghìn người kêu gọi dân chủ cho Myanma. Tháng 9 năm 2007, khoảng 20 nghìn sư sãi đã diễu hành xuất phát từ chùa Shwedagon để phản đối chế độ chính trị của Myanma.

Từ chân đồi có 4 lối leo lên chùa. Mỗi lối lên có một cặp chinthe (sư tử thần) canh gác. Lối phía đông và phía nam có rất nhiều cửa hàng bán dụng cụ thờ Phật và dụng cụ tu hành. Tại các bậc thang cuối của lối lên phía Nam có chân dung vị Phật thứ hai trong kiếp Trái Đất này, tức là Phật Câu Na Hàm.

Đế tháp bằng gạch, dát bên ngoài là những tấm vàng. Trên đế tháp là sân hiên mà chỉ có các nhà sư và nam giới được phép đi vào. Tiếp theo là phần hình chuông của tháp. Trên phần hình chuông là phần mũ tháp. Trên phần mũ tháp là phần giả như các cánh sen. Trên phần giả các cánh sen là phần có hình dáng hoa chuối, rồi trên nữa là phần hình vương miện. Phần hình vương miện còn gọi là lọng (hti) được nạm 5448 viên kim cương và 2317 viên hồng ngọc. Trên cùng là cánh hình cờ và ở vị trí cao nhất là búp kim cương gắn một viên kim cương 76 carat (15 g).

Vàng giát quanh tháp là những tấm vàng dát mỏng được các thợ thủ công chế tác bằng kỹ thuật truyền thống. Các tín đồ mua các tấm vàng dâng nhà chùa để giát vào tháp. Việc dâng vàng này bắt đầu có từ thời Hoàng hậu Shin Sawbu.

Chùa từ lâu trở thành nơi hành hương của các tín đồ Phật giáo Myanma. Khi vào chùa phải cởi giày dép. Thời thuộc Anh, chính quyền thực dân ra quy định rằng người Anh và quan chức chính phủ đô hộ vẫn được đi giày dép khi vào chùa. Người Myanma thường đi vòng quanh tháp theo chiều quay của kim đồng hồ. Trong chùa có 7 bồn nước tương ứng với 7 hành tinh và với 7 ngày trong tuần. Đấy là nơi những người có sinh nhật trùng vào ngày đó tới tưới nước tắm cho tượng Phật.

 

 

 

 

* Trường thiền viện Kyat Khat Wine – nơi giáo dục và Pật pháp hòa quyện

Đất nước Myanmar nổi tiếng với tín ngưỡng Phật giáo mạnh mẽ, lan tỏa khắp mọi nơi. Đến Myanmar là đến xứ sở chùa vàng, tháp vàng và tượng Phật vàng đầy tôn nghiêm.

Đặc biệt, ở Myanmar đến chùa thì phải nghiêm chỉnh nhất, thành kính nhất, các nguyên thủ quốc giá cũng phải cởi bỏ giày trước khi bước vào và không gian chùa luôn thanh tịnh, uy nghiêm.

Các sư chùa thường tập trung học tại các trường thiền viện, trong đó nổi tiếng nhất là Trường thiền viện Kyat Khat Wine. Một ngôi trường lâu đời của thầy sư các ngôi chùa. Ở đây ngoài dạy về tri thức khoa học còn dạy cách làm người, cách sống theo hướng thiện, sống đúng lời Phật dạy…

Nếu bạn tham gia chuyến du lịch Myanmar nhất định phải đến đây để cảm nhận rõ văn hóa, con người, nền giáo dục của xứ sở chùa vàng này.

Đặc biệt, nếu đi cùng gia đình, con cháu hãy cho chúng thấy những vẻ đẹp truyền thống, tâm linh này sẽ giúp ích rất nhiều cho con đường sự nghiệp, cuộc sống mai sau.

* Nguồn gốc bức tượng Shwethalyaung Buddha (Đầu kê trên gối. Trần ở lối đi bằng gỗ)

Ngày xưa, tại một vùng đất xung quanh Bago, có một vị vua vô cùng độc ác có tên là Mgadeikpa, vương quốc của ông ta chỉ toàn những sự nhiễu loạn và bạo lực tàn khốc. Tuy vậy, con trai của ông ta lại rất hiền lành, đức độ. Một ngày nọ, hoàng từ đi vào rừng săn bắn và lạc một ngôi làng nhỏ. Tại đây, chàng ta gặp và nảy sinh tình cảm với một cô gái người Môn. Mặc dù cô là một Phật tử, chàng giống như bao người khác trong vương quốc thờ thần pagan, hai người vẫn yêu nhau và kết hôn sau khi chàng hứa rằng cô có thể tiếp tục theo đạo Phật.

Sau khi trở về cung điện, vị vua vô cùng tức giận khi ông phát hiện ra điều này và ra lệnh xử tử cả hai người. Tuy nhiên khi cô dâu mới cầu nguyện trước tượng pagan thì bức tượng nứt ra và vỡ vụn. Vị vua trở nên vô cùng sợ hãi và nhận ra tội lỗi của mình. Ông yêu cầu xây dựng một bức tượng Phật và lệnh cho toàn dân chuyển sang thờ Phật

Bức tượng phật tuyệt đẹp mà bạn nhìn thấy ngày nay là kết quả của tình yêu buồn của hai người. Dài 180 ft và cao 53ft, riêng ngón tay thôi đã dài 10ft. Shwethalyaung là một công trình kiến trúc được xây dựng bởi 1 vị quốc vương mang một cảm giác tội lỗi.

Tượng Shwethalyaung Buddha:

            - Tượng Phật nằm lớn thứ 2 trên thế giới

            - Dài 55m – Cao 16m

           

Đây là bức tượng Phật nằm (ngả tượng phật) lớn nhất tại Myanmar và lớn thứ hai trên thế giới sau bức tượng nằm dài 74 m ở Dawei (Tavoy). Phật ngả Shwethalyaung Buddha này có chiều dài 55m và cao 16m, vô cùng thu hút du khách ghé thăm.

Sau khi Bago bị chiến tranh tàn phá vào năm 1757, người ta không còn thấy sự xuất hiện của pho tượng Phật khổng lồ Shwethalyaung cho đến năm 1881 khi một nhà thầu đã khai quật được nó trong khi xây dựng tuyến đường sắt Yangon – Bago. Năm 1906, các kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Myanmar đã tu tạo lại bức tượng này. Tượng Phật được tu sửa lại một cách cẩn thận và tinh tế hơn khiến cho nó có diện mạo như ngày nay.

* Chùa Shwemawdaw còn gọi là Chùa Vàng Bago, là một chùa tháp ở BagoMyanmar. Chùa cao 114 m và là chùa cao nhất Myanmar. Shwemadaw, cùng với chùa Shwedagon và chùa Kyaiktiyo, là những chùa Môn nổi tiếng.

Lễ hội hàng năm của chùa là một sự kiện kéo dài tới 10 ngày, diễn ra theo lịch cổ truyền của người Myanmar ở Tagu.[1]

 

Chùa Shwemawdaw vốn được xây vào thế kỷ X. Những trận động đất đã vài lần phá hủy chùa, chẳng hạn như vào năm 1917 và năm 1930. Những phần của ngôi chùa trước lần sụp đổ năm 1917 vẫn còn nhìn thấy tại đây. Ngôi tháp trong chùa ban đầu chỉ cao 21 m, do người Môn xây để làm nơi chưa xá lỵ Phật, cụ thể là hai sợi tóc của Phật. Tương truyền, hai nhà buôn người Môn là Mahasala và Kullasala đã sang Ấn Độ và mang hai sợi tóc này về. Các xá lỵ răng Phật được đưa thêm vào chùa vào các năm 982 và 1385. Vua Dhammazedi đã cho dựng thêm một quả chuông, vua Bayinnaung cúng tiến một mũ miện, và vua Bodawpaya cúng tiến một chiếc lọng. Ngôi tháp hiện tại được xây sau này.

 

* Golden rock – Hòn đá vàng bí hiểm

Chùa Kyaikhtiyo có lịch sử hơn 2.500 năm, nằm cách Yangon khoảng 210 km. Kyaikhtiyo được xây trên một hòn đá nằm ở độ cao 1.100 m so với mực nước biển. Hòn đá cao 7,3 m và chu vi 15,2 m được gọi là Hòn đá vàng (Golden Rock) bởi vì cả hòn đá và ngôi chùa được dát kín bằng vàng lá. Theo tiếng của người Mon, Kyaik có nghĩa là chùa và Htiyo là “mang cái đầu của vị tu sĩ”. Kyaikhtiyo có nghĩa là “ngôi chùa được đặt trên cái đầu vị tu sĩ”.

 

Theo truyền thuyết trong lần đức Phật đến đây truyền đạo, ông đưa cho tu sĩ Taik Tha một sợi tóc. Tu sĩ giấu sợi tóc trong tóc của mình, sau đó trao cho nhà vua với mơ ước rằng “sợi tóc sẽ được cất trong một hòn đá có hình dáng giống như cái đầu của vị tu sĩ”. Nhà vua không thể tìm đâu ra một hòn đá như thế, phải nhờ cha mẹ (thần Zawgyi và nữ thần Naga) tìm giúp. Hai vị thần này đã tìm ra hòn đá dưới lòng đại dương. Hòn đá được đưa lên và đặt ở đồi Kyaikhtiyo. Sợi tóc của đức Phật được cất vào hòn đá và ngôi chùa nhỏ đã được xây dựng lên mang tên Kyaikhtiyo.

 

Golden Rock còn nổi tiếng về sự chênh vênh, bởi hòn đá to tướng chỉ tiếp xúc với núi vỏn vẹn 78 cm2. Người Miến Điện giải thích sự bền vững này là nhờ thần Tawadeintha đã dùng con thuyền thần trục vớt hòn đá và chở nó lên đỉnh đồi. Chiếc thuyền và dây thừng được biến thành đá và nằm cách Golden Rock khoảng 300 m để giữ hòn đá không rơi.

 

Với các Phật tử Miến Điện được đến nơi, quỳ lạy và ôm hôn hòn đá sẽ giúp họ trở nên giàu có, thịnh vượng. Với du khách quốc tế, việc chiêm ngưỡng một hòn đá và ngôi chùa được phủ bằng vàng lá nằm cheo leo trên đỉnh núi là điều thú vị có một không hai.

 

Hành trình chinh phục

Việc hành hương từ bến xe thị trấn Kyaikhtiyo để đến Hòn đá vàng cũng mang lại cho du khách nhiều cung bậc cảm xúc.

 

Mỗi xe ở đây có ba phần: thùng xe có các miếng ván bắc ngang cho du khách ngồi, phía sau thùng xe là cái lồng sắt dành chứa hành lý cho khách… sau cùng là cái bệ dành cho khách thích đu đeo. Xe vừa xuất bến là đường bắt đầu lên dốc, xe rú lên và phun khói đen mịt mù. Xe lao nhanh qua dốc quanh co làm mọi người trên xe hết nhào sang bên phải lại nhào sang bên trái. Lúc đầu có cảm giác rất sợ nhưng những động tác như thế cứ lặp đi lặp lại làm mọi người trở nên thích thú hơn và cười một trận ra trò. Đến Kimpun, khách phải xuống xe đi bộ.

 

Cung đường từ trại Kimpun đến Hòn đá vàng cũng là một thử thách thú vị với du khách. Đây là những dốc đứng và quanh co như cùi chỏ, không xe cộ, ngựa bò nào đi được, chỉ có thể chinh phục bằng chân người. Kẻ thua cuộc từ đầu hay giữa chừng thì ngồi kiệu thuê người khiêng, kẻ muốn chinh phục thì leo từng bước. Chỉ có 1,2 km nhưng thông thường phải mất đến 1 tiếng đồng hồ mới đến đỉnh. Rồi cảm giác vỡ òa khi leo được đến nơi và chạm được vào hòn đá. Một chút bình yên trong tâm hồn khi lắng nghe tiếng chuông chùa vang vọng xa xa…

 

Điều thú vị hơn cả ở Golden Rock là ngắm hoàng hôn và đón bình minh. Trong bóng chiều, Golden Rock trở nên lung linh và huyền ảo. Đêm đến, tảng đá thiêng sáng rực lên trong ánh đèn vàng, lung linh trong làn khói hương và trầm bổng trong những lời nguyện cầu.

 

Buổi sáng, khi mặt trời chưa thức dậy, đường chân trời ánh lên những sắc màu rực rỡ, ở bên dưới, mây trắng ôm vào những đỉnh núi thấp hơn, vẽ nên một bức tranh thủy mặc. Trong phút chốc mặt trời hiện ra nhanh đến bất ngờ, vụt tỏa sáng chói chang những khoảnh khắc thay đổi thật kỳ diệu mà người ta chỉ có thể cảm nhận chứ không bút mực, phim ảnh nào ghi lại được.

 

Chùa Kyaik Pun  Kyaik (Phật) & Pon (Bốn), là một ngôi chùa ở thành phố Bagovùng BagoMyanmar. Chùa này nổi tiếng với điện thờ với bốn tượng Phật ngồi xoay lưng vào nhau và trông ra bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Các tượng Phật này cao 27 m và là hình ảnh của bốn vị Phật ở kiếp hiện tại là:

Phật Câu-lưu-tôn

Phật Câu-na-nàm-mâu-ni

Phật Ca-Diếp

Tất-đạt-đa Cồ-đàm.

Các pho tượng được vua Migadippa cho dựng vào thế kỷ VI và được vua Dhammazedi cho sửa sang lại vào thế kỷ XV.

 

Cung điện Kanbawzathadi (Thế kỉ 16)

là một cung điện ở BagoMyanma. Cung điện ban đầu được Vua Bayinnaung cho xây vào năm 1556, bao gồm 76 phòng ốc. Năm 1599, cung điện bị hỏa hoạn thiêu hủy. Năm 1990, Chính phủ Myanma khởi công tái thiết cung điện và công trình được hoàn thành vào năm 1992.[1] Cung điện nguy nga tráng lệ này thể hiện sự thịnh vượng của đế chế thứ hai của người Miến.

Cung điện gốc được vua Bayinnaung của nhà Taungoo - một trong những vị vua vĩ đại của Myanmar - cho xây vào năm 1553 trên một khu đất rộng khoảng 28,3 hecta. Những người phương Tây từng đến thăm cung điện cổ mô tả lại về sự nguy nga tráng lệ của cung điện, chẳng hạn như điện triều kiến trong cung được lợp bằng các tấm vàng. Năm 1599, cung điện bị chính quân Myanmar thiêu rụi trước khi rút lui khỏi kinh thành trong đợt quân Xiêm tấn công sang Myanmar. Tàn tích của cung điện sau đó cũng bị bỏ hoang phế.

Mãi đến năm 1990, các dự án khai quật mới được tiến hành. Các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều gạch, 167 cột trụ bằng gỗ tếch trong đó có 135 cột có khắc các văn bản bằng chữ Môn ghi các địa phương và cá nhân đã cúng tiến để xây cung điện. Các nhà khoa học cũng tìm thấy hơn 2000 hình Phật.

Cung điện xây lại dựa vào thiết kế gốc được phát hiện trên cơ sở các khai quật khảo cổ và các bản vẽ gốc về công trình. Cung điện xây lại cũng bao gồm 76 phòng ốc. Tuy nhiên, các đồ nội thất Hoàng gia thật sự bên trong thì không còn nhiều do hỏa hoạn.

Chỉ một số tòa trong cung điện là được xây lại. Điện triều kiến là tòa lớn nhất. Đây là nơi vua họp với các đại thần. Điện này còn được gọi là Điện Ngai Sư tử Hoàng gia vì ngai vua Thihathana hay Ngai Sư tử được đặt ở đây. Phía trong toàn điện này được sơn vàng. Một bản sao của Ngai Sư tử và một số cột gỗ tếch được trưng bày trong điện.

Điện Ngai Bhammayarthana hay Điện Ngai Ong là nơi vua ở, bao gồm phòng ngủ và long sàng. Điện này có mái nhiều lớp kiểu Myanmar. Các điện khác dành cho các thành viên khác của hoàng gia.

Cung điện Kanbawzathadi từng có chín ngai vàng, mỗi cái được trang trí bằng những motif khác nhau và sử dụng trong những dịp khác nhau. Tám trong số đó đã bị lửa thiêu hủy, chỉ còn Ngai Sư tử (Ngai Thihathana). Gọi là Ngai Sư tử vì có hình sư tử được trạm trên ngai. Ngai này làm bằng gỗ quý, hiện được lưu giữ và trưng bày ở Bảo tàng Quốc gia ở Yangon.

Trong cung điện ngày nay có một viện bảo tàng, nơi lưu giữ, trưng bày và nghiên cứu các hiện vật và đồ tạo tác tìm thấy trong các cuộc khai quật khảo cổ cùng những thông tin về triều Taungoo.

 

Tượng đài Độc lập (1948): Cao 46m

 là một địa danh du lịch nổi tiếng tại Myanmar. Công trình này là chứng nhân của lịch sử Myanmar muốn lưu giữ lại cho đời sau để tôn vinh giá trị của hòa bình. Đài tưởng niệm Độc Lập tọa lạc ở trung tâm công viên Mahabadola, Yangon. Như một nhân chứng đánh dấu cột mốc quan trọng, tượng đài được xây nhằm kỷ niệm ngày độc lập của Miến Điện thoát khỏi người Anh vào năm 1948. Tượng đài Độc Lập là một tòa tháp cao với chiều cao 46 mét, được bao quanh bởi năm trụ nhỏ hơn 9 mét. Xung quanh đài tưởng niệm có bản tóm tắt lịch sử được khắc xung quanh chân tượng và một số sư tử bằng đồng. Từ đây, du khách sẽ tìm thấy nhiều điểm tham quan của Yangon, chẳng hạn như Sule Paya và Tòa nhà thị Chính thành phố. Dạo chơi trong công viên Mahabadola và cùng ghé thăm khu di tích văn hóa với nhiều công trình độc đáo, và Đài tưởng niệm độc lập là một trong số đó, chuyến du lịch Myanmar của du khách sẽ ý nghĩa hơn rất nhiều khi ghé thăm nơi đây.


 

Nhận xét

Đăng nhận xét

Zalo
Facebook
Hotline: 0918 290 015