Translate

MYANMAR-- CHIM HINTHA (NGỖNG HAMSA) BIỂU TƯỢNG BAGO



Thành phố Bago được thành lập từ năm 573 sau công nguyên bởi 2 hoàng tử người Môn tại đất nước Thaton.


Hai vị hoàng tử nhìn thấy 2 con chim hamsa một trống một mái đứng giữa hồ nước lớn. Xem đây là điềm lành, họ đã lập ra một thành phố hoàng gia cạnh bờ hồ, tên là Hanthawady

Thành phố Bago có chùa Hintha Gon Pagoda cũng lấy từ biểu tượng loài chim này.

Con Hintha đẹp đẽ còn là biểu tượng tôn quý của người Mon
Đây là biểu tượng bất tử của chùa tháp - Hintha Gon Paya Một trong những vị vua vĩ đại cai trị Bago là Dhammazedi, nắm quyền từ 1471 đến 1492 Trong 21 năm, ông không chỉ xây dựng nhiều chùa tháp ở Bago mà còn cho mạ vàng lại chùa Shwedagon của Yangon (sau đó nó được gọi là Dagon) 4 lần..

 

HAMSA

Hamsa chỉ về ngỗng hay thiên nga
Hamsa (tiếng Phạn: haṃsa hay hansa) là một loài chim nước di trú, thường được cho là ngỗng (Ngỗng Ấn Độ) hay thiên nga (Thiên nga trắng) nó là linh điểu, biểu trưng của nền văn hóa Ấn Độ và các nước Đông Nam Á.


Hamsa xuất hiện trong văn hóa các nước Đông Nam Á từ ảnh hưởng của Bà-la-môn và sau đó ảnh hưởng vào trong mỹ thuật Phật giáo nhất là lĩnh vực kiến trúc.

Hamsa có tên gọi khác nhau trong các ngôn ngữ văn hóa khác nhau như tiếng Hindi là hans, tiếng Miến Điện gọi là hintha hay hinthar, tiếng Mon là hongsa,tiếng Shan là hong tiếng Khmer cũng là hong và tiếng Thái là chim Hong
Ở Tây Tạng, thiên nga được gọi là ngang pa (Phạn: hamsa) và ngỗng là so bya (Phạn: karanda) thường được trộn lẫn trong sự mô tả tranh tượng Hindu giáo và Phật giáo dưới một tên gọi chung là chim Hamsa.

 

Từ nguyên hamsa biểu thị sức mạnh sinh lực (prana) của bản ngã cá nhân (jiva), với cách phát âm từ hơi thở đi ra tạo nên âm “ham” và hơi thở đi vào tạo nên âm “sa”. Những âm của hơi thở lặp lại thở thành “so-ham” mang nghĩa “tôi là anh”
Những yogin Ấn Độ thường được ám chỉ như là paramahamsa, có nghĩa là “con thiên nga tối thượng”. Thiên nga trắng cũng được nhận dạng với garuda trắng của Tây Tạng (mkha’lding), như là vua của loài chim nước, danh hiệu paramhamsa, là Hamsa tối cao với tiền tố param.

Hamsa là loài ngỗng hay thiên nga có đặc điểm là vào mùa hạ thì di trú đến hồ thiêng Manasarovar (“Hồ tâm trí”) trên dãy Himalaya.
Hamsa được cho là ăn những hạt ngọc trai và có khả năng tách sữa từ hỗn hợp sữa với nước.
Sự bay lượn trên bầu trời bao la của Hamsa cũng biểu trưng cho sự giải thoát ra khỏi vòng luân hồi.


Chim có thể đi trên mặt đất (prithvi), bay lượn trên trời, và cả bơi dưới nước.
Ở Thái Lan, nó cũng được cho là một con vật đẹp. Con vịt thần thoại này, giống thiên nga ở mình dài, cổ mảnh mai/ thon thả, và lù xù lông với đuôi xòe, duyên dáng.

Có những biến thể với đôi má phồng to đặc thù vốn là dạng chim Hong của Miến Điện/ Lan Na.
Thần thoại về loài chim nước phổ biến Hintha (Hamsa) của Miến Điện có nguồn gốc từ con sông Bago là con sông chảy mạnh vào sông Yangon và từ đó đổ ra biển.
Theo thần thoại, hai hoàng tử thấy một cặp chim Hintha với chiếc cổ lông màu vàng kim sáng rực, nghỉ trên chóp đất này. Cồn đất khô này quá nhỏ nên con chim mái phải đậu trên lưng của con chim trống.

 

* Biểu trưng

Thiếu nữ Ấn Độ và ngỗng thần Hamsa

Chim thần điểu Hamsa là vật cưỡi của thần Brahma.
Nó sống ở nơi hồ nước thiêng liêng thanh tịnh nên Hamsa là biểu tượng của trí tuệ và cái đẹp.
Trong Upanishads, Hamsa sở hữu trí tuệ thiêng liêng của thần Brahman. Và cũng là vật cưỡi cho người phối ngẫu của thần Brahma là Sarasvati nữ thần của sự thông thái, trí tuệ. Hamsa có liên hệ với Surya. Khi đó, nó biểu thị cho sức mạnh và sự kiên cường. Hamsa còn có những thuộc tính như: biểu tượng của sự thuần khiết, riêng rẽ, sự hiểu biết, hơi thở vũ trụ (prana) và sự thành tựu thiêng.

 

* Trong Phật giáo, một trong những tiền thân của Phật được kể là một Hamsa đầu đàn, cai quản 96.000 Hamsa khác
Phật được gọi là “Hamsaraja” được dịch là “Nhạn vương” và “Nhạn môn” được dùng để chỉ “Phật môn”; “Nhạn đường” đồng nghĩa với “Nhạn vũ”, dùng để chỉ cho chùa Phật; và ngôi tháp “Hamsa-stupa” của xứ Ma-yết-đà, thuộc Ấn Độ xưa được dịch là “Nhạn tháp”.

Theo truyền thuyết Shan, có một con chim khổng lồ gọi là tilanka đã cắp bà hoàng hậu từ cung điện đến gần nơi Phật sinh ra, trong một khu rừng xa. Hoàng hậu sau đó đẻ một bé trai. Khi đứa bé lớn lên, thagyas là thần linh cho một chiếc đàn hạc. Giai điệu réo rắc của chiếc đàn hạc đã dẫn tất cả voi trong khu rừng trở lại quê nhà, nơi con chim đã cắp mẹ cậu mang đi. Khi lên ngôi vua, đã gọi vương quốc là Muang Mao. “Mao” có nghĩa là chóng mặt hoa mắt, do khi con chim cắp mẹ, bà đã bị hoa mắt chóng mặt. Từ chim Hintha hay Hamsa cũng được dùng nhiều trong đơn vị hệ thống đo lường thuốc phiện của Miến Điện

 

* Nghệ thuật

Hamsa/Nhạn trong Phật giáo Đại thừa được đồng nhất với Phật và các danh lam Trung Quốc cũng được định danh là Đại Nhạn Tháp, Tiểu Nhạn Tháp. Hình tượng Hamsa cũng được dùng rộng rãi trong nghệ thuật Phật giáo thuộc trường phái Gandhara, cùng với hình ảnh của Shakyamuni. Motif thiên nga hay ngỗng Bà-la-môn được phát triển rộng rãi vào giai đoạn đầu của mỹ thuật Phật giáo, đặc biệt được chạm khắc đá trang trí các trụ tròn hay đường viền trên tranh tô vẽ hay thiết kế ở các tranh thêu kim tuyến.

 

Ngỗng thần ở Luang Prabang, Lào
Hintha hay Hamsa được mô tả đặc biệt phổ biến trong nghệ thuật Miến Điện và là biểu tượng tộc người Mon. Nó cũng được vẽ trên cờ của phân khu Bago và quốc bang Mon. Con Hintha còn là biểu tượng của người Mon, là biểu tượng của chùa tháp Hintha Gon Paya. Trong điêu khắc gỗ Miến Điện, con chim thần Hintha có nguồn gốc từ tộc người Mon, được ghi dấu bởi chùa Hinthagone.

Các chùa Phật giáo Tiểu thừa thường đặt tượng Hamsa trên đỉnh cột phướn dựng giữa sân chùa. Việc dựng cột phướn với tượng Hamsa phổ biến ở chùa Khmer và chùa Thái Lan. Hong/ Hamsa cũng thấy trong các đồ án trang trí chùa tháp. Một dạng hình tượng chim Hong xuất hiện trên cổng, cửa và cửa sổ tòa nhà tu viện, nơi chúng hòa quyện vào các đồ án trang trí trau chuốt, tỉ mỉ. Chim Hong cũng được đặt trên cột đỉnh/chóp mái của đền điện, chúng thường chiếm vị trí trung tâm hay lắc lư/đi lạch bạch dọc theo sống mái nhà, chim Hong thường trang nghiêm với một cái lọng hoặc mũ miện mọc lên từ lưng.

Ở các chùa phía Bắc Thái Lan, chim Hong thỉnh thoảng được thể hiện thành tượng chạm trổ mỹ lệ gắn đầu mái thuyền rồng. Có thể những kiểu thức chim Hong trừu tượng là đặc điểm con chim canh gác/ hộ pháp, những kiểu thức khác của hình chạm đầu mái thấy ở một vài chùa Lan Na và Lào. Sự khác biệt là ở sự cách điệu thon dài, uốn cong nơi đầu và cái mỏ hình móc, dài hay ngắn. Chim Hong thường ngậm ở mỏ một sợi dây hay dây leo treo một chiếc lá bồ-đề. Kiểu thức chim Hong hay Hamsa Miến Điện thấy ở chùa tháp Bắc Thái Lan mập lùn hơn và giống vịt hơn các kiểu thức Thái

Chim Hong được trang trí với motif đường tròn trên cánh và các mẫu trang sức trên cổ chim. Những tua dây leo xoắn cuộn từ mỏ chim trong khi đuôi mắt hình tam giác xoắn cuộn dài ra từ con mắt tròn nhỏ. Kích cỡ Hamsa thông thường phù hợp với trọng lượng. Con vật thuộc về thiên giới này thường được làm bằng đồng thiếc hoặc gốm, có đặc điểm mỏ dày, mập mạp và ngắn ngủn như bị cắt ngang đột ngột.
Tại Việt Nam, trong Hoàng thành Thăng Long có nhiều tượng ngỗng thần Hamsa, bị gọi nhầm là uyên ương, hình dáng cột phướn saothong có chim Hong/Hamsa đứng trên đầu cột ngậm lá phướn (gọi là thong), ngỗng trời Hamsa đã được thay thế bằng con quạ (có dị bản là diều).

 

BÓNG ĐÁ, CÔNG CỤ GIÚP ANH QUỐC CHINH PHẠT MIẾN ĐIỆN

Myanmar - Một vàng son bị hủy hoại bởi chế độ độc tài

Nền bóng đá Đông Nam Á, khu vực vẫn bị gọi là "vùng trũng" trên bản đồ bóng đá quốc tế. Thế nhưng, nội tại của các nền bóng đá thuộc vùng trũng, lại ẩn chứa những câu chuyện bí mật.
.
Sau cuộc cải cách chính trị, đất nước này đã thực sự mở cửa với thế giới. Điện thoại di động, SIM điện thoại, Internet - những giá trị cơ bản tối thiểu của một thế giới văn minh đều đã hiện hữu ở Myanmar. Trong tiến trình hội nhập của cả nền kinh tế, bóng đá cũng không đứng ngoài vòng xoáy. Người Myanmar đã biết thương mại hóa bóng đá khi hàng năm, cuộc tuyển chọn tài năng nhí do liên đoàn tổ chức được phát sóng trực tiếp trên sóng truyền hình.

Những thành tựu mang tính nhảy vọt trong thời gian gần đây của bóng đá Myanmar, ví dụ như suất dự FIFA World Cup U20 năm 2015Những thành tựu mang tính nhảy vọt trong thời gian gần đây của bóng đá Myanmar, ví dụ như suất dự FIFA World Cup U20 năm 2015
Hiện có khoảng 20.000 cầu thủ đang chơi bóng ở 600 CLB khác nhau, tạo ra “cuộc cách mạng” mang tính đoàn thể hóa bóng đá lớn nhất nhì khu vực. Myanmar tự hào là quốc gia đầu tiên ở “vùng trũng” đi World Cup (giải World Cup U20 2015). Và đấy mới là một trong muôn vàn dấu hiệu tích cực của bóng đá Myanmar.

Thời điểm này một năm trước, khi cuộc tổng tuyển cử được phát động, xã hội Myanmar nói chung và bóng đá Myanmar nói riêng đã nhìn thấy con đường mới mở ra trước mắt họ. Từ độc tài tới dân chủ, cuộc chuyển mình kéo dài nửa thập kỷ cuối cùng cũng đưa Myanmar xích gần thế giới.

 

Tuy nhiên, đó chỉ là sự hồi quang của một nền bóng đá vốn đã rất mạnh những năm 1960-1970 ở cấp độ châu lục, trước khi bị hủy hoại
Nhưng trong 50 năm ấy, cũng vì chế độ độc tài thời hậu thuộc địa mà bóng đá Myanmar, từ chỗ đang phát triển thịnh vượng, biến thành “kẻ ăn mày dĩ vãng”.

 

Xa xưa, thời Myanmar còn được biết đến dưới cái tên Miến Điện, có một người đàn ông tên George Scott tìm tới phía Bắc vùng đất này. Scott là nhà báo, nhiếp ảnh gia có đam mê thám hiểm.

Đen đủi cho Scott vì nơi đầu tiên ông đặt chân tới trên mảnh đất xa lạ kia là tộc Wa, gồm rất nhiều ngôi làng lấy hình đầu lâu làm biểu tượng văn hóa.Thời điểm ấy là mùa “săn đầu người” theo đúng nghĩa đen, và một tay da trắng, mắt xanh, mũi lõ trở thành mục tiêu hàng đầu của cuộc đuổi bắt.

 

Bóng đá đến với Myanmar bởi Sir George Scott (hút tẩu), người truyền dạy bóng đá cho những ngưởi thuộc tộc Wa nhằm để giữ mạng sống
Không vũ khí, tóm lại Scott hoàn toàn không có khả năng tự vệ. Nhưng đổi lại, ông có 2 tấm bùa hộ mệnh quý giá mà bất kỳ ai lạc vào tộc Wa đều mong muốn: Ngoại ngữ và bóng đá.

 

Scott đọc thông viết thạo 4 ngoại ngữ, nhờ đó ông có thể nói chuyện bằng tiếng Miến phổ thông với những người đứng đầu tộc. Kế tiếp là những mẩu chuyện hài hước đầy trí tuệ nhưng vô cùng dễ hiểu và gần gũi.

Thay vì chém giết, người ta mời Scott về dự tiệc thường niên quanh lửa trại. Scott lấy trong hành lý một quả bóng, hay chính xác là vật thể hình tròn có thể di chuyển dưới tác động của đôi chân và bắt đầu rủ vài thanh niên trong tộc làm quen với trái bóng.
Chính từ lúc đấy, bóng đá bắt đầu ngấm vào huyết quản của người dân Myanmar, cùng với sự đô hộ của đế quốc Anh lên mảnh đất này

Bản thân Scott không hề ý thức được việc đang làm. Ông đâu biết rằng tại Miến Điện, có một môn thể thao lâu đời là chinlone, cũng sử dụng trái cầu/bóng tròn. Nó đòi hỏi kỹ năng dùng chân khéo léo, hệt như bóng đá.

 

* Những câu chuyện của Scott tại Miến Điện bắt đầu được gửi về. Bóng đá, trong một diễn biến khác, đã vô tình mở đường cho Anh quốc xâm lược Miến Điện.

Trong cuốn nhật ký hiếm hoi của Scott vương quốc Anh còn giữ được, lịch sử cho ta biết bằng cách nào, bóng đá khiến quân đội Anh chú ý tới Miến Điện.

 

Sau sự kiện ở tộc Wa, Scott được dân bản địa giúp đỡ, xin cho một công việc làm giáo viên tại Rangoon. Việc hàng ngày của Scott, là kể những câu chuyện lịch sử trên khắp thế giới cho học sinh.

Tuy nhiên, một yếu tố khiến người dân Myanmar mê bóng đá chính vì họ chơi rất giỏi môn chinlone(tức cầu mây)

 

Đặc thù công việc là thế nên sau một thời gian ngắn, Scott nhanh chóng tiếp cận được vị vua Thibaw. Năm 1885, Scott yết kiến buổi triều của Thibaw. Những gì tai nghe, mắt thấy là một vị vua ưa bạo lực, không được dân ủng hộ, coi dao kiếm là hướng giải quyết công việc hiệu quả nhất.

Thêm một bài báo nữa được gửi về. Vài tháng sau, Anh chính thức đưa quân tới xâm lược Miến Điện.

 

ĐỊA CHÍNH TRỊ - LỢI THẾ CỦA BÓNG ĐÁ MIẾN ĐIỆN

Vùng đất Miến Điện, trên lý thuyết, chỉ là một trong vô vàn khu thực địa chịu sự cai quản của Hội đồng Hành chính Anh. Rất nhiều nước sở tại sớm làm quen với bóng đá nhờ sống trong xã hội kiểu mẫu do người Anh thiết lập.

Nhưng có những điều thuộc về tạo hóa, nghĩa là chỉ một số ít được hưởng những đặc ân mặc định mà Chúa ban tặng.
Nếu Philippines từng là một đội tuyển có số má thì Miến Điện, thậm chí mang dáng dấp của đội bóng tầm cỡ thế giới.

Bóng đá, kiến trúc thuộc địa, bộ luật là những di sản mà người Anh để lại Myanmar

 

Sau khi giành độc lập năm 1948, Miến Điện thừa hưởng toàn bộ di sản mà “mẫu quốc” để lại. Quan trọng nhất, là việc quốc gia này nắm trong tay nguồn tài nguyên khoáng sản màu mỡ. Scott từng chu du mất 5 tháng chỉ để tìm hiểu khu cao nguyên Shan State
(nơi mà diện tích rộng hơn Xứ Wales và Anh cộng lại)
Nói thế để thấy, Miến Điện rất giàu. Sự thật, họ là 1 trong 4 quốc gia có dự trữ tài sản lớn nhất châu Á thập niên 1950, 1960.
Lại nằm ở vịnh Bengal, bao quanh là Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Bangladesh và Ấn Độ, Miến Điện dư tiềm lực đẩy mạnh hoạt động thể thao, mà nổi bật là bóng đá.

Một bức biếm họa vẽ về vị thế của bóng đá Miến Điện ở giai đoạn "Thời Kỳ Vàng Son" thuộc thập niên 1960-1970, khi bóng đá Myanmar đạt đẳng cấp châu lục và thế giới

Năm 1954, Miến Điện sang Philippines đá giải châu Á thì về nhì, chỉ chịu thua Đài Bắc Trung Quốc.
Trong khoảng 1965-1973, Miến Điện thống trị bóng đá Đông Nam Á bằng 5 chức vô địch liên tiếp
ĐT Miến Điện thắng ở Asian Games 1966 và 1970, giành HCB Cúp bóng đá châu Á (thua Iran) 1968 và nhận giải Cống hiến tại Olympic 1972 tổ chức ở Munich.

Người Miến Điện từ lúc lọt lòng đã sớm làm quen với trái bóng, ai cũng mang trong mình dòng máu kỹ thuật bẩm sinh nhờ chơi trò chinlone, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ “quê hương bóng đá”, được hậu thuẫn tài chính. Tất cả những yếu tố ấy giải thích cho “Thời đại hoàng kim của bóng đá Miến Điện”.

Bóng đá được người dân Myanmar chơi khắp nơi: trong trường học, ngoài cánh đồng, trên sân chùa và bên ngoài sở giao dịch chứng khoán Yangoon

 

BÓNG ĐÁ CHẾT YỂU VÌ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI

Giữa chính trường và thể thao chỉ là cái chớp mắt. Hệ lụy mà cuộc đảo chính quân sự 1962 để lại quá nặng nề. Bóng đá là một nạn nhân trực tiếp.

Thực ra, những nghi ngại về tính ổn định của nền thể chế mới giành độc lập đã manh nha bộc lộ khi tướng Aung San (cha của bà Aung San Suu Kyi - đương kim ngoại trưởng Myanmar) và 6 thành viên nội các bị ám sát ngay trước ngày Miến Điện tuyên bố thoát khỏi sự kiểm soát của người Anh. Miến Điện vắng Aung San như rắn mất đầu, dẫn tới tình trạng dân chủ “nửa vời”.

 

Tuy nhiên, cuộc đảo chính quân sự, đem lại chế độ độc tài toàn trị trong suốt hơn 2 thập kỷ đã khiến Myanmar bị cách ly khỏi thế giới, đem đến sự sụp đổ ở nhiều mặt, trong đó có bóng đá. Cho đến khi cuộc tổng tuyển cử dân chủ xuất hiện hồi năm ngoái

Trước tình hình đó, tướng Ne Win thực hiện cuộc đảo chính năm 1962, chuyển sang chế độ cai trị toàn trị. Chủ trương của nhà nước mới rất rõ ràng, là dùng quân đội làm lực lượng cai quản, coi vũ trang là con đường ngắn nhất giúp đất nước ổn định chính trị.

Chế độ độc tài đã kìm hãm sự phát triển của các quốc gia thế nào thì lịch sử đã trả lời. Có quá nhiều bài học thương đau từ những nền văn minh lụn bại.

• Ảnh hưởng của nhà nước độc tài tới bóng đá.

Trước khi trở thành quốc gia độc lập, ở Miến Điện có 7 CLB bóng đá, 100% thuộc quyền sở hữu của các chủ điền tư bản. Thành phần đội bóng chia theo tỷ lệ 2-1, tức là cứ 2 cầu thủ bản địa thì 1 cầu thủ người Anh.

Song kể từ lúc tướng Ne Win nắm quyền, ông ta phát động chiến dịch “Bài ngoại quốc”, một trong những vết nhơ trong lịch sử loài người. Các tổ chức cứu trợ quốc tế từng “cạch mặt” Miến Điện (sau này là Myanmar) trong suốt 2 thập kỷ vì sợ tính mạng bị đe dọa bất kể lúc nào.

Thể thao, mà cụ thể hơn là bóng đá, gắn chặt với nhóm cơ quan đoàn thể nhà nước. Các đội bóng phải đổi tên, ví dụ như CLB Bộ Nội Vụ, CLB Bộ Xây Dựng, CLB Lực lượng Cảnh vệ hay CLB Tổng cục Hải quan.

Cách ly với thế giới trong hoàn cảnh có những sự lựa chọn tốt hơn, không chỉ bóng đá mà mọi khía cạnh xã hội Miến Điện đều ở tình trạng bi đát và kiệt quệ. Chỉ riêng nỗi lo giải quyết xung đột với cộng đồng người thiểu số đã làm suy yếu cả một nhà nước, huống chi là bóng đá - một vấn đề “cỏn còn” và không mang tính sống còn.

Và rồi, bóng đá sẽ đem lại niềm vui, lòng tự hào cho mỗi người dân Myanmar trên hành trình tìm lại kỷ nguyên vàng son đã bị hủy hoại bởi chế độc độc tàiVà rồi, bóng đá sẽ đem lại niềm vui, lòng tự hào cho mỗi người dân Myanmar trên hành trình tìm lại kỷ nguyên vàng son đã bị hủy hoại bởi chế độc độc tài
Mô hình “tự cung - tự cấp” không phù hợp trong điều kiện kinh tế thị trường và tự khắc, các đoàn thể bóng đá tại Miến Điện tự sụp đổ vì thiếu kinh phí hoạt động.

Tới tận bây giờ, khi Miến Điện đã đổi tên thành Myanmar, đất nước đón chào vị tổng thống dân sự đầu tiên sau nửa thế kỷ, bóng đá Myanmar mới dám tự tin đăng cai một VCK AFF Cup.

Dù muộn màng, nhưng còn hơn không. Giống câu ngạn ngữ của người Anh: “Better late than never”. Bóng đá Myanmar đang từng bước làm lại sau hơn 50 năm “chết lâm sàng”.

QUÁ TRÌNH DÂN CHỦ MYANMAR

Cuộc tổng tuyển cử hôm Chủ nhật 8.11.2015được coi là một cột mốc lịch sử, kết thúc bước cuối cùng trong lộ trình dân chủ hóa mà Myanmar đã khởi động nhiều năm trước, đồng thời là bước đầu tiên trên con đường xây dựng một xã hội tự do và phồn vinh ở đất nước 55 triệu dân này. Chặng đường đổi mới của Myanmar đã thực sự biến nước này thành một trường hợp điển hình cho một chế độ độc tài tự lột xác từ bên trong một cách hòa bình.

Sau khi giành được độc lập từ tay thực dân Anh năm 1948, đất nước Myanmar đã có một giai đoạn phát triển mạnh cho đến khi quân đội làm đảo chính và lập chế độ độc tài quân phiệt tháng 3-1962. Năm thập kỷ dưới chế độ độc tài đã biến một đất nước phồn vinh thành một quốc gia bị cô lập và lạc hậu nhất khu vực. Nếu như vào năm 1962 GDP bình quân đầu người của Myanmar đạt 670 đô la Mỹ/năm, cao gấp đôi Thái Lan và gấp ba Indonesia thì đến năm 2010, GDP của Myanmar còn thấp hơn cả Lào và Campuchia trong cùng khối ASEAN, theo Quỹ Tiền tệ quốc tế.

Trong 50 năm đất nước bị bần cùng hóa, người dân Myanmar đã không ít lần đứng lên chống lại chế độ quân phiệt, nhưng đều bị dìm trong biển máu. Có thể kể tới “cuộc khủng hoảng U Thant” năm 1974 khi một số sinh viên Đại học Yangon bị bắn chết vì đã tổ chức tang lễ và tôn vinh ông U Thant - nhà ngoại giao Myanmar từng giữ chức Tổng thư ký Liên hiệp quốc hai nhiệm kỳ, 1961-1971, và có nhiều đóng góp quan trọng cho hòa bình thế giới. Biến cố 8888 (cuộc đấu tranh đòi dân chủ nổ ra vào ngày 8-8-1988) bị đàn áp khốc liệt, dẫn tới sự thành lập đảng Liên đoàn quốc gia vì Dân chủ (NLD) đối lập, đưa bà Aung San Suu Kyi lên vũ đài chính trị.

Gần đây hơn, cuộc “cách mạng áo cà sa” của các tăng sĩ Phật giáo năm 2007 cũng bị đàn áp đẫm máu.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1990, đảng NLD giành thắng lợi áp đảo nhưng bị phe quân đội nắm quyền phủ nhận kết quả bầu cử, lãnh tụ Aung San Suu Kyi bị quản thúc tại nhà, đảng NLD gần như bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tuy nhiên, kết quả bầu cử năm 1990 cho thấy khát vọng và sự lựa chọn của người dân Myanmar mà giới quân sự cầm quyền không thể tiếp tục đàn áp bằng bạo lực.

Lộ trình bảy bước tới dân chủ

Biết không thể tiếp tục duy trì sự cai trị độc tài để tiếp tục đẩy đất nước tới vực thẳm, năm 2003 các tướng lĩnh cao cấp nhất trong quân đội đã quyết định thay đổi đường lối, thực hiện “cải cách”. Lộ trình “7 bước tới dân chủ” được hoạch định và giao cho tướng Thein Sein chịu trách nhiệm điều hành thực hiện. Bước thứ nhất, một đại hội quốc gia được triệu tập để thảo ra bản hiến pháp mới, tuy còn nặng mùi quân phiệt, nhưng vẫn được trưng cầu dân ý và thông qua năm 2008. Bước thứ hai, năm 2010 cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội được tổ chức theo hiến pháp mới (đảng NLD tẩy chay cuộc bầu cử này); Quốc hội sau đó đã bầu tướng Thein Sein làm tổng thống đầu năm 2011 và phê chuẩn một nội các mà hầu hết là các tướng lĩnh khoác áo dân sự.

Ông Thein Sein là một gương mặt đặc biệt. Khi nắm được quyền lãnh đạo tối cao, Tổng thống Thein Sein đã mở rộng nền dân chủ ra ngoài ý tưởng ban đầu của những người xướng ra nó và đôi lần ông gặp phải sự chống đối dữ dội trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội, đặc biệt là trong quyết định xóa án “quản thúc tại gia” kéo dài suốt 15 năm áp đặt lên bà Aung San Suu Kyi, khôi phục tư cách pháp lý của đảng NLD đối lập và xét lại quan hệ kinh tế với Trung Quốc

Tổng thống Thein Sein gần như đáp ứng tất cả những yêu cầu chính đáng của lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi về cải cách đất nước: trả tự do cho hàng ngàn tù chính trị, cho phép thành lập công đoàn độc lập, xóa bỏ chế độ kiểm duyệt, thực thi tự do ngôn luận, công nhận báo chí tư nhân, tổ chức tuyển cử tự do và công bằng, ban hành luật về đầu tư nước ngoài và cải cách hệ thống tỷ giá... Chính phủ Myanmar cũng đã đàm phán và ký kết hiệp định đình chiến với phiến quân thuộc các nhóm sắc tộc Kachin, Karen, Shan... đặt cơ sở cho sự hòa hợp dân tộc. Hình ảnh Tổng thống Thein Sein cùng phu nhân đến thăm nhà lãnh đạo đối lập Aung San Suu Kyi tại nhà riêng và khẩn khoản mời bà “ra làm việc nước”, sau đó là việc hai nhà lãnh đạo cùng xuất hiện trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc năm 2013 đã gây được niềm tin mạnh mẽ trong và ngoài nước Myanmar về xu thế dân chủ hóa “không thể đảo ngược”. Năm 2011, Myanmar tổ chức bầu cử bổ sung một số ghế đại biểu quốc hội; đảng NLD giành được thắng lợi lớn, và từ đó phe đối lập bắt đầu có tiếng nói chính thức trên nghị trường về những chiến lược lớn của đất nước cũng như kiểm soát phần nào quyền lực của quân đội và đảng cầm quyền.

Để giành được sự ủng hộ của quân đội cho tiến trình cải cách, Tổng thống Thein Sein và lãnh tụ Aung San Suu Kyi đã có một lựa chọn hợp lý: đề cao đoàn kết dân tộc sao cho không làm cho những thủ lĩnh cũ của chế độ quân phiệt hoảng sợ. Bà Aung San Suu Kyi nhiều lần nói tới nhu cầu phải làm cho giới quân sự cầm quyền cảm thấy an toàn, không lo bị trả thù, không truy cứu tội trạng, không tịch thu tài sản... của họ trong khi Tổng thống Thein Sein nhiều lần đề cập tới nhu cầu “tiến từng bước” để không gây sốc. “Ngay từ đầu, chúng tôi biết người dân mong muốn một chế độ dân chủ, nhưng chúng tôi không muốn thay đổi đột ngột vì làm như vậy rất nguy hiểm cho xã hội. Chúng tôi thay đổi vì nhân dân muốn như vậy”, ông nói. Ông Thein Sein cũng có lần nói với báo The New York Times rằng, Myanmar tiến hành cải cách dân chủ là theo nguyện vọng của người dân chứ không phải do áp lực cấm vận của phương Tây, cũng không phải vì tác động của cao trào “Mùa xuân Ảrập” như báo chí nước ngoài bình luận.

Lựa chọn “thoát Trung” của Myanmar

Song song với công cuộc hòa hợp hòa giải và đoàn kết dân tộc ở trong nước, Myanmar còn có những bước đi mạnh mẽ để tái hòa nhập với cộng đồng quốc tế, tách ra và xa dần ảnh hưởng của Trung Quốc.

Trong nửa thế kỷ dưới chế độ quân phiệt, nhất là từ khi bị phương Tây cấm vận kinh tế vào đầu thập niên 1990 sau biến cố 8888, Myanmar dần dần biến thành “sân sau” của Trung Quốc. Trung Quốc cung cấp cho Myanmar hàng hóa công nghệ, đổi lại các doanh nghiệp Trung Quốc gần như độc quyền khai thác gỗ và khoáng sản, đặc biệt là các mỏ đá quý có trữ lượng lớn nhất thế giới. Trung Quốc hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Myanmar, chiếm 70% vốn FDI cam kết (khoảng 20 tỉ đô la Mỹ) đầu tư vào hàng trăm dự án khai khoáng, thủy điện, khai thác gỗ, khai thác dầu khí và xây dựng đường ống dẫn dầu từ Ấn Độ Dương sang Vân Nam. Cùng với các dự án này, công nhân và thương nhân Trung Quốc di cư sang Myanmar ngày càng đông, ở miền Bắc Myanmar có những tỉnh mà người Trung Quốc chiếm một nửa dân số.

Các dự án kinh tế của Trung Quốc hầu như đều có sự tham gia của quân đội Myanmar nhưng cũng đều gây phẫn nộ trong nhân dân, dẫn tới nhiều cuộc biểu tình, xung đột mà dự án thủy điện Myitsone trên sông Irrawaddy phía Bắc nước này là một điển hình. Dự án có vốn đầu tư 3,6 tỉ đô la Mỹ này do tập đoàn Đầu tư Năng lượng Trung Quốc (CPI) làm chủ và thi công, sẽ nhấn chìm 26.238 héc ta đất, tương đương diện tích nước Singapore, nhưng 90% sản lượng điện tạo ra sẽ được cung cấp cho tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.

Đầu tháng 10-2011, Tổng thống Thein Sein bất ngờ tuyên bố đình chỉ dự án thủy điện Myitsone bất chấp sự phản đối quyết liệt của Bắc Kinh - một dấu hiệu cho thấy xu hướng “thoát Trung” của Myanmar đã được khởi động. Những nhà lãnh đạo Myanmar tin rằng, nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và chưa khai thác của đất nước, cộng với vị trí chiến lược giữa Ấn Độ và Trung Quốc, Myanmar hoàn toàn có thể phát triển thịnh vượng và độc lập trên sân chơi toàn cầu mà không phải phụ thuộc vào bất cứ nền kinh tế nào. Xu hướng đó càng được củng cố khi Myanmar bắt đầu được phương Tây gỡ bỏ cấm vận, xóa nợ, cung cấp ODA, cải cách kinh tế theo hướng thị trường tự do và thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Ấn Độ, Việt Nam... để phát triển kinh tế. Tổ chức tư vấn McKinsey Global Institute đưa ra dự báo tổng sản lượng GDP của Myanmar sẽ tăng gấp 4 lần từ mức 45 tỉ đô la Mỹ năm 2013 lên 200 tỉ đô la vào năm 2030.

Bằng cuộc bầu cử tự do, ngày 8-11 vừa qua, Myanmar đã hoàn thành một chặng đường dài đến dân chủ và thịnh vượng. Nhưng xây dựng dân chủ là một tiến trình liên tục và không bằng phẳng: phía trước vẫn còn rất nhiều trở ngại, chẳng hạn quân đội vẫn còn vai trò chi phối mọi mặt đời sống chính trị và kinh tế; xung đột sắc tộc và tôn giáo trong nội bộ nhân dân vẫn thường xuyên gây bất ổn; các thể chế tam quyền phân lập chưa định hình vững chắc mà còn phụ thuộc vào uy tín cá nhân của một số vị lãnh tụ thì nền dân chủ chưa hoàn thiện và hãy còn mong manh. Tuy nhiên, khi người dân đã có quyền tham gia vào công cuộc quản lý đất nước thì hoàn toàn có thể kỳ vọng Myanmar sẽ sớm bứt phá, vươn lên thành một đất nước phồn vinh, có vị trí xứng đáng trong cộng đồng các dân tộc Đông Nam Á

AUNG SAN SUU KYI

Aung San Suu Kyi, nữ thủ lĩnh phi thường của Myanmar

Xuất thân từ gia đình một vị tướng anh hùng của Myanmar, bà San Suu Kyi đã dành gần như cả đời để đấu tranh cho cải cách dân chủ ở Myanmar.
Tháng 11/2015 nữ chính trị gia Aung San Suu Kyi lãnh đạo Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD) giành thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử cạnh tranh công khai đầu tiên ở Myanmar trong 25 năm qua.

Chiến thắng này xuất hiện đúng 5 năm sau ngày bà San Suu Kyi được thả tự do, thoát khỏi cảnh quản thúc tại gia trong 15 năm liền.
Trong thời kỳ từ năm 1989 đến năm 2010, người phụ nữ 70 tuổi có nhiều thời gian bị tù đày do nỗ lực khôi phục nền dân chủ ở đất nước Myanmar khi đó nằm dưới quyền quản lý của quân đội. Thực tiễn này đưa bà trở thành một biểu tượng quốc tế cho việc phản kháng hòa bình chống áp bức.
Năm 1991 bà được trao giải Nobel Hòa bình và vị chủ tịch Ủy ban Nobel đã gọi bà là “một tấm gương tiêu biểu về quyền lực của người không có quyền”.
Tuy nhiên, sau khi được thả và tham gia chính trị sau đó, bà Suu Kyi bị một số nhóm nhân quyền chỉ trích là vẫn chưa bênh vực cho các nhóm thiểu số Myanmar trong thời gian xảy ra xung đột bạo lực liên quan tới các nhóm dân tộc ở một số vùng của đất nước Đông Nam Á này.
Gia đình giàu truyền thống
Aung San Suu Kyi là con gái của tướng Aung San - anh hùng độc lập của Myanmar.
Vị tướng này bị ám sát trong thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 7/1947, chỉ 6 tháng trước khi Myanmar độc lập. Lúc đó bà Suu Kyi mới được 2 tuổi.
Năm 1960 bà đi Ấn Độ cùng với người mẹ Daw Khin Kyi, người đã được bổ nhiệm làm Đại sứ Myanmar ở Delhi.
Bốn năm sau, bà sang Đại học Oxford ở Anh, nơi bà học triết, chính trị và kinh tế học. Tại đó bà gặp người chồng tương lai của mình, viện sĩ Michael Aris.
Sau quãng thời gian sống và làm việc ở Nhật Bản và Bhutan, bà định cư ở Anh để nuôi dạy 2 đứa con của mình, Alexander và Kim, nhưng quê hương Myanmar không bao giờ phai mờ trong tâm trí bà.
Khi quay trở lại Yangon (Myanmar) vào năm 1988 để chăm sóc mẹ già đang ốm nặng, đất nước của bà chìm trong dòng xoáy chính trị lớn.
Khi đó hàng ngàn sinh viên, nhân viên văn phòng và thầy tu đã xuống đường đòi cải cách dân chủ.
Trong diễn văn ở Yangon vào ngày 26/8/1988, bà phát biểu: “Với tư cách là con gái của cha tôi, tôi không thể thờ ơ với những gì đang diễn ra”. Từ đó bà dấn thân vào việc dẫn dắt phong trào đối lập chống lại thủ lĩnh quân sự khi đó là tướng Ne Win.
Lấy cảm hứng từ các chiến dịch bất bạo động của lãnh đạo phong trào quyền dân sự Mỹ Martin Luther King và lãnh đạo Mahatma Gandhi của Ấn Độ, bà đã tổ chức các cuộc tập hợp lực lượng và đi khắp đất nước Myanmar kêu gọi cải cách dân chủ hòa bình và bầu cử tự do.
Nhưng giới quân nhân – những người lên nắm quyền sau cuộc đảo chính vào ngày 18/9/1988, đã trấn áp một cách tàn bạo các cuộc biểu tình do bà lãnh đạo. Năm sau đó bà Suu Kyi bắt đầu bị quản thúc tại gia.
Chính quyền quân sự tổ chức cuộc bầu cử toàn quốc vào tháng 5/1990 mà đảng NLD của bà San Suu Kyi giành thắng lợi. Thế nhưng chính quyền quân sự đã khước từ chuyển giao quyền lực cho NLD.

Quản thúc tại gia

Bà Suu Kyi bị quản thúc như vậy ở Yangon trong 6 năm cho đến khi bà được phóng thích vào tháng 7/1995.

Những người ủng hộ chào đón bà San Suu Kyi khi bà được thả tự do hoàn toàn vào năm 2010

Bà lại bị quản thúc tại gia tiếp vào tháng 9/2000, khi bà cố gắng tới thành phố Mandalay thách thức các lệnh hạn chế đi lại.

Bà được thả vô điều kiện vào tháng 5/2002, nhưng chỉ hơn một năm sau bà lại bị tống giam sau vụ đụng độ giữa những người ủng hộ bà và một đám đông do chính phủ hậu thuẫn.
Bà sau đó được ra tù, nhưng rồi lại bị quản thúc tại nhà.
Trong thời gian bị quản thúc, bà Suu Kyi mải miết học tập và rèn luyện. Bà dành thời gian suy nghĩ, luyện tập kỹ năng tiếng Pháp và Nhật, và thư giãn bằng cách chơi các bản nhạc dương cầm của Bach.
Thi thoảng bà có thể gặp gỡ các cán bộ khác của NLD và một số nhà ngoại giao.
Nhưng trong thời kỳ đầu bị giam giữ, bà thường sống cô độc. Bà không được phép gặp 2 con trai của mình cũng như người chồng – người về sau qua đời do ung thư vào tháng 3/1999.
Giới chức quân sự đề nghị để bà đi Anh gặp chồng khi ông thập tử nhất sinh, nhưng bà đã từ chối do sợ rằng mình sẽ không có cơ hội trở về quê hương

• Quay trở lại với chính trường

Vào ngày 7/11/2010, bà bị gạt khỏi cuộc bầu cử đầu tiên của Myanmar sau 2 thập kỷ (kể từ khi quân đội làm đảo chính). Nhưng 6 ngày sau bà được tự do, không còn bị quản thúc tại gia nữa.
Người con trai Kim Aris được phép thăm bà lần đầu tiên trong một thập kỷ.
Khi chính phủ mới ở Myanmar bắt đầu tiến trình cải cách, Aung San Suu Kyi và đảng của bà tham gia trở lại hoạt động chính trường.
Khi các cuộc bầu cử bổ sung được tổ chức vào tháng 4/2012, để lấp khoảng trống của các chính trị gia đã giữ các chức vụ trong chính phủ, bà cùng đảng của mình đã cạnh tranh để giành các ghế trống đó, bất chấp các nghi ngại.

Bà San Suu Kyi và đảng NLD giành được 43 trong 45 ghế trống. Các tuần sau đó, bà Suu Kyi tuyên thệ trong quốc hội và trở thành lãnh đạo phe đối lập.
Tháng 5 sau đó, bà bắt đầu chuyến thăm bên ngoài Myanmar đầu tiên sau 24 năm, với sự tin tưởng rằng các lãnh đạo mới của đất nước sẽ cho phép bà quay trở về.
“Chặng đường đấu tranh vẫn còn”
Mặc dầu vậy, bà Suu Kyi chưa hài lòng với mức độ tiến triển của dân chủ ở Myanmar.
Vào tháng 11/2014, bà cảnh báo: Myanmar không tiến hành bất cứ cải cách thực sự nào trong 2 năm qua. Bà cũng cảnh báo rằng nước Mỹ - đã dỡ bỏ hầu hết các lệnh trừng phạt nhằm vào Myanmar trong năm 2012 – đã “quá lạc quan”.
Vào tháng 6, một cuộc bỏ phiếu trong quốc hội Myanmar đã thất bại trong nỗ lực loại bỏ quyền phủ quyết của quân đội nước này đối với các thay đổi trong Hiến pháp. Không những vậy, bà San Suu Kyi còn bị cấm ra ứng cử Tổng thống do hai con trai bà mang hộ chiếu Anh chứ không phải Myanmar – một phán quyết mà bà cho là không công bằng.
Năm 2015, chính quyền dân sự của Tổng thống Thein Sein (được quân đội hậu thuẫn) tuyên bố sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử vào tháng 11 – cuộc bầu cử cạnh tranh công khai đầu tiên trong 25 năm.
Sau cuộc bỏ phiếu vào ngày 8/11, tình hình trở nên rõ ràng là NLD sẽ giành chiến thắng áp đảo.
Vào ngày 13/11 đảng NLD giành được 2/3 số ghế cạnh tranh cần thiết trong quốc hội để giành chiến thắng áp đảo trong một cuộc bầu cử được công nhận rộng rãi là rất công bằng.
Dẫu vậy, hàng trăm ngàn người, bao gồm cộng đồng Rohingya Hồi giáo – những người không được công nhận là công dân – đã không được phép bầu cử.

CHIẾN TRANH THÁI - MIẾN

về cuộc chiến tranh Xiêm La – Miến Điện thế kỷ 18
Cuộc chiến tranh Xiêm La – Miến Điện không chỉ để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với hai nước Xiêm, Miến mà còn tác động tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị khu vực Đông Nam Á lục địa lúc bấy giờ.

Xiêm (Thailand) và Miến Điện (Myanmar) là hai nước láng giềng nằm về phía tây của bán đảo Đông Nam Á lục địa, vốn có liên quan với nhau về nhiều mặt từ lâu đời. Có thể nói từ thế kỷ XVI cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, mâu thuẫn, xung đột, chiến tranh thường xuyên xảy ra giữa hai nước. Trong đó, cuộc chiến bùng nổ giữa hai nước từ năm 1766 đến năm 1767 được xem là đỉnh cao của mâu thuẫn, xung đột và nó đã để lại những hậu quả nặng nề đối với hai bên và làm xáo trộn tình hình chính trị khu vực. Tìm hiểu về cuộc chiến này không chỉ để hiểu thêm về lịch sử quan hệ phức tạp trong quá khứ giữa hai nước Xiêm, Miến mà chúng ta còn có thể rút ra những bài học lịch sử bổ ích, quý báu cho việc xây dựng ASEAN thành một khu vực hòa bình, hữu nghị và hợp tác trong thời đại “hội nhập” khu vực và quốc tế hiện nay.

1. Về nguyên nhân

Kể từ thế kỷ XVI trở đi, Xiêm và Miến Điện đều là hai nước hùng mạnh trong khu vực, có phần lãnh thổ chạy dài từ bắc xuống nam, giáp biển Andaman. Cả hai nước đều có nhiều quyền lợi to lớn ở khu vực này xét về phương diện kinh tế lẫn chính trị. Từ vùng lãnh thổ nhỏ, hẹp nằm sát ven biển này, cả hai nước đều đã phát triển thương mại, đặc biệt là ngoại thương với các nước Ấn Độ, Arập và phương Tây. Đối với Xiêm điều này càng trở nên bức thiết hơn khi vương quốc Malacca, vốn là vùng đất chị ảnh hưởng của Xiêm đã bị Bồ Đào Nha xâm chiếm (1511), sau đó là Hà Lan kiểm soát (1641) trong khi đó, kinh tế ngoại thương do nhà nước phong kiến độc quyền kiểm soát ngày càng được các vua Xiêm đặc biệt chú trọng. Điều này càng thúc đẩy Xiêm tìm mọi cách 16 để làm chủ vùng biển phía tây nam để mở rộng buôn bán với các nước như Ấn Độ, phương Tây và cả với Trung Quốc và Nhật Bản.

Về phương diện chính trị, nếu Miến Điện làm chủ được vùng đất phía nam cũng có nghĩa là thiết lập được ảnh hưởng của họ đối với các tiểu quốc ở bán đảo Malaysia và quan trọng hơn là dễ dàng kiểm soát và khống chế người Môn ở phía nam, vốn nhiều lần nổi dậy chống lại chính quyền của người Miến. Và đó thường là cơ hội để Xiêm lợi dụng sự “cầu cứu” của người Môn để tiến hành các cuộc tấn công người Miến. Đối với Xiêm, nếu làm chủ được dải đất nhỏ, hẹp phía nam có nghĩa là duy trì được quyền lực và ảnh hưởng của mình đối với các tiểu quốc ở bán đảo Malaysia mà vốn là “thuộc quốc” của Xiêm từ lâu.

Còn vấn đề Lanna, một công quốc, nằm về phía bắc của Xiêm (hiện nay nằm chung quanh tỉnh Chiềng Mai) thường bị chi phối, xâu xé bởi hai nước Xiêm, Miến. Cả hai nước luôn tìm mọi cách để lôi kéo, can thiệp và giành quyền thống trị đối với công quốc Lanna.

Năm 1742, người Môn do Smingtho cầm đầu đã nổi dậy ở vùng Hạ Miến Điện, chống lại chính quyền Ava (của người Miến), giành lại chủ quyền riêng cho người Môn, lập vương quốc riêng ở phía nam. Hàng trăm người Miến, trong đó có nhiều người thuộc hàng quý tộc không thể chạy về kinh đô Ava (ở miền trung), nên có hơn 310 gia đình phải chạy trốn sang Xiêm
Vua Xiêm lúc bấy giờ là Borommakot (1732-1758) đã đồng ý cho những người Miến này được cư trú trên đất Xiêm và cung cấp nhà cửa cũng như lương thực, thực phẩm để sinh sống. Việc l àm này của vua Xiêm thể hiện tính nhân ái, thương người của một vị vua tôn sùng đạo Phật, đồng thời cũng bao hàm những ý đồ chính trị sâu xa. Vừa được lòng triều đình Ava vừa lợi dụng và khoét sâu mâu thuẫn giữa người Môn và người Miến để góp phần thay đổi tương quan lực lượng giữa hai nước theo chiều hướng có lợi cho Xiêm.

Biết được điều này, năm 1744, vua Miến đã cử một phái đoàn đến kinh đô Xiêm để tạ ơn vua Borommakot và tỏ lòng mong muốn Xiêm trung lập trước cuộc chiến tranh giữa người Miến và người Môn. Hai năm sau, Xiêm cử một phái đoàn sang kinh đô Ava của Miến Điện để đáp lễ  nhằm duy trì quan hệ hữu hảo giữa hai nước.
Tuy nhiên, năm 1752, vua Miến Alaugpaya đã tập hợp được hơn 5.000 quân tinh nhuệ tấn công người Môn. Với khả năng và sức mạnh mới của một vị vua trẻ, Alaugpaya đã thống nhất đất nước. Điều này không chỉ trở thành nguy cơ đe dọa đối với an ninh lãnh thổ của Xiêm mà còn làm cho Lan Na, Lan Xang (Lào) thực sự lo lắng về sự bành trướng của Miến Điện như đã từng xảy ra vào các thế kỷ trước đó.

Trong lúc Miến Điện được củng cố và ngày hung mạnh thì ở Xiêm, nội bộ triều đình lại mâu thuẫn, xung đột gay gắt dẫn đến nhiều cuộc ám hại lẫn nhau giữa các phe phái trong việc tranh giành ngôi vua sau khi vua Bo rommakot qua đời (1758)

Quyền lực của chính quyền trung ương đối với các địa phương suy giảm nghiêm trọng. Đến thời vua Ekkathat cầm quyền (1758-1767), chính quyền Xiêm suy yếu, không thể huy động được sức mạnh của các mường (tỉnh) để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trong khi người Môn bị thất bại đang nương náu trên đất Xiêm thì họ lại bí mật tập hợp lực lượng, tổ chức tấn công vào miền nam Miến Điện. Sự kiện này được xem như duyên cớ trực tiếp để quân đội hùng mạnh của Alaugpaya xuất quân trừng phạt người Môn và tiến công xâm lược Xiêm.

2. Diễn biến vắn tắt

Đầu năm 1760, quân Miến Điện tràn vào Tavoy (phía nam Miến Điện, nơi người Môn đang nổi dậy). Người Môn lại chạy sang ẩn náu trên đất Xiêm và được Xiêm đồng ý đã trở thành cái cớ để Alaugpaya tấn công chiếm lại vùng đất ven biển Tanintharya (năm 1760) dưới quyền quản lý quân Xiêm. Không dừng lại đó, quân Miến tiếp tục tấn công vào sâu trong lãnh thổ của Xiêm. Đến tháng 4 năm 1760, quân Miến bắt đầu bao vây kinh đô Ayuthaya của Xiêm. Để kêu gọi đầu hàng, Alaugpaya gửi thư cho vua Xiêm trong thư có đoạn viết: “ Ta đến đây không phải để lật đổ vương quốc, ta đến như hóa thân linh thiêng nhằm khôi phục tôn giáo chân chính. Quy phục đi mọi điều sẽ tốt đẹp.” Thư hồi đáp của vua Xiêm: “ Trong vũ trụ này chỉ có năm đức Phật. Bốn vị đã xuất hiện rồi, vị thứ năm thì đang trú ngụ nơi các thần linh. Chắc chắn không có vị thứ sáu.”
Chiến tranh lại nổ ra, Alaugpaya chưa kịp xâm chiếm Ayuthaya thì đã qua đời.

Con của Alaugpaya là Naungdogyi lên ngôi (1760-1763 ), tiếp sau đó là vua Hsinbyshin (1763-1776) đều là những vị vua có ưu thế về quân sự, càng quyết tâm thôn tính Ayuthaya. Để tăng cường thế bao vây Xiêm, hai vị vua này đã tìm cách khuất phục được công quốc Lanna sau hai lần tiến công vào năm 1763 dưới thời Naungdogyi và năm 1764 dưới thời Hsinbyshin. Miến Điện đã cử Ap’ai K’ammini làm tổng đốc (governor) tại Chiềng Mai, kinh đô của Lanna Cùng năm này (1764), Miến Điện tiến công Lan Xang và Luang Phabang nhanh chóng bị Miến Điện chiếm đóng. Như vậy, lực lượng của Miến Điện đã chinh phục được các “chư hầu” phía bắc và đông bắc của Xiêm.

Đến tháng 07/1765, vua Hsinbyshin mở cuộc tấn công Xiêm với quy mô lớn. Sau hơn 5 tháng hành quân, đến tháng 01/1766 toàn bộ quân Miến Điện đã tập trung trước kinh đô Ayuthaya với tổng số quân lên đến 50.000 người [5]. Kinh đô Ayuthaya bị quân Miến bao vây chặt và gần như bị cắt liên lạc với bên ngoài. Cuộc chiến đấu giằng co giữa trong và ngoài thành diễn ra quyết liệt. Sau khoảng 4 tháng bị bao vây, kinh đô Ayuthaya cạn kiệt lương thực, nạn đói và bệnh dịch hoành hành, lại thêm một vụ hỏa hoạn đã thiêu hủy hàng ngàn nhà cửa. Trong tình thế đó, buộc Xiêm phải đầu hàng, chấp nhận làm chư hầu cho Miến Điện, nhưng quân Miến không chấp nhận.

Miến Điện buộc Xiêm phải đầu hàng vô điều kiện, nên mở cuộc tấn công dữ dội hơn và đã chọc thủng được tường thành.

Ngày 07/04/1767, kinh đô Ayuthaya bị thất thủ hoàn toàn. Quân Miến Điện thẳng tay chém giết, cướp phá, bắt bớ tù binh. Kinh đô Ayuthaya đã tồn tại hơn bốn thế kỉ, đã từng phát triển thịnh đạt nhất nay đã bị phá hủy hoàn toàn, trở thành đống gạch vụn.
Triều đại Ayuthaya ra đời (1350) đến đây (1767) chấm dứt. Miến Điện chiến thắng, trên đường về nước còn bắt theo hàng nghìn tù binh và dân thường Xiêm như thợ thủ công, nghệ sĩ, nhà chiêm tinh, thợ kim hoàn… Phần lớn tù binh và dân chúng bị bắt được đưa đến khai khẩn và lập nghiệp ở các vùng hoang hóa của Miến Điện. Bắt người là một đặc điểm phổ biến trong các cuộc chiến tranh xấm chiếm và tranh giành lãnh thổ giữa các nước Đông Nam Á trong thời đại phong kiến.

Dưới sự thống trị của Miến Điện, các mường của Xiêm dưới sự lãnh đạo của các quan lại trong hoàng tộc hay các quý tộc địa phương thường xuyên nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của ngoại bang. Mương Phitxanulok nằm về phía bắc do một người đã từng là võ quan trong triều đình Ayuthaya chỉ huy. Ông đã tập hợp lực lượng liên tục chống lại quân Miến và ngày càng được các mường chung quanh như Phixay, Nakhonxavan ủng hộ và cùng tham gia. Mương Xavanburi nằm vùng cực bắc của Xiêm do một vị sư trụ trì mương Xavanburi lãnh đạo được ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân đã đánh đuổi được quân Miến và làm chủ một vùng cực bắc rộng lớn cho đến biên giới của Lanna. Tại mương Nakhonxithammarat nằm phía nam do một phó mương tên là Nủ đã nổi dậy, giành được quyền làm chủ từ mương Chumphon cho đến các tiểu quốc giáp Malaixia
Với sự nổi dậy ở nhiều nơi, đến ngày 6 tháng 11 năm 1767, dưới sự lãnh đạo của Taksin (người Thái gốc Hoa), Xiêm đã đánh đuổi được quân Miến Điện ra khỏi lãnh thổ, giành lại độc lập cho đất nước, chấm dứt 7 tháng th ống trị của Miến Điện.

3. Về hậu quả

Cuộc chiến tranh không chỉ để lại những hậu quả nghiêm trọng đối với hai nước Xiêm, Miến mà còn tác động tiêu cực đến tình hình an ninh chính trị khu vực Đông Nam Á lục địa lúc bấy giờ.

Đối với Xiêm, tuy đánh đuổi được quân Miến Điện ra khỏi lãnh thổ, giành được độc lập dân tộc nhưng tình hình chính trị bị chia rẽ thành nhiều nhóm, nhiều phe phái không thống nhất với nhau. Chính quyền của vua Taksin phải mất hơn 3 năm (1767- 1770) mới dẹp xong các thế lực chống đối để ổn định tình hình, thống nhất về chính trị trong cả nước.

Chiến tranh và sự bất ổn về chính trị trong những năm sau chiến tranh làm cho nền kinh tế, thương mại trong và ngoài nước bị đình trệ. Thương nhân phương Tây thì vắng bóng, mãi đến năm 1779, tàu buôn của Bồ Đào Nha từ Surat (Ấn Độ) mới trở lại buôn bán ở kinh đô Thonbury,chỉ có một số rất ít thương nhân Trung Quốc tiếp tục buôn bán ở đây mà thôi. Các đội tàu buôn của nhà nước phong kiến Xiêm thì không thể hoạt động. Kinh đô Ayuthaya một thời tráng lệ nay chỉ còn một vài bức tường và gạch đổ nát mà khách tham quan du lịch ngày nay có thể nhìn thấy.

Trước tình hình đó làm cho các nước chư hầu của Xiê m như Lào, Campuchia… tỏ ra không muốn thần phục Xiêm nữa. Và đó là “lý do” để ngay sau đó Taksin tiến hành nhiều cuộc chiến tranh bành trướng ra bên ngoài không chỉ “trừng phạt” Lào và Campuchia mà còn nhắm đến nhiều mục đích khác nhau, làm xáo trộn tình hình chính trị ở các nước Đông Nam Á lục địa lúc bấy giờ

Đối với Miến Điện, tuy đã đánh bại được quân Xiêm dưới thời vua Ekka that, kết thúc vương triều Ayuthaya, và buộc Xiêm phải chịu sự thống trị của Miến Điện nhưng không kéo dài được lâu mà chỉ tồn tại trong vòng 7 tháng. Nhưng đó lại là cơ hội để quân Thanh (Trung Quốc) ở tỉnh Vân Nam tấn công xâm lược Miến Điện vì lúc bấy giờ quân Miến đang tập trung lực lượng ở Xiêm. Chính vì lẽ đó, quân Miến buộc phải rút về để đối phó với quân Thanh.

Hầu hết các vị trí tranh chấp mà Miến Điện chiếm được trong chiến tranh đều lần lượt bị Xiêm chiếm lại như Tavoy, Tanassarim… kể cả công quốc Lanna (1774). Điều đó làm cho người Môn và người Lanna lại tìm cách dựa vào Xiêm để chống lại người Miến làm mâu thuẫn dân tộc, vốn đã phức tạp trong nội bộ Miến Điện lại tăng lên.

Và nguy hiểm hơn là sự thù địch giữa Xiêm và Miến đã bị quân Anh lợi dụng trong cuộc chiến tranh Anh – Miến lần thứ nhất (1824 – 1826), khi Anh đã “thuyết phục” được Xiêm cùng tham gia với Anh, góp phần làm cho Miến bị thất bại nhanh chóng. Đó là cơ sở để cho Anh tiếp tục gây ra hai cuộc chiến tranh nữa để xâm lược và biến Miến Điện thành thuộc địa sau này.

Tìm hiểu về cuộc chiến tranh giữa Xiêm và Miến Điện giúp chúng ta thấy rõ hơn những hậu quả nặng nề, lâu dài đối với các bên liên quan, càng cho chúng ta thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của “ hòa bình, hợp tác, hữu nghị và phát triển ” trong mục tiêu của ASEAN hiện nay.

 

Nhận xét

Đăng nhận xét

Zalo
Facebook
Hotline: 0918 290 015